Tập 77 - Đại học Thái Nguyên
Transcription
Tập 77 - Đại học Thái Nguyên
HOG T NGHE I AND TECHNOLOGY ET. MTIIIGINE a0 ctno DUC vA DAo rAo DAI HQC THAI NGUYEN T+p ehi KHOA HQC vn C6NG NGHE Journal of Science and Technology - tdng bi6n tAp: - Ph6 tdng bi6n tAp Thrrdng - Ph6 Tdng bi6n tAp: - Trtt'&ng Ban bi6n tAp: - Thtr ky Tda soan: tn/c: GS.TS. ru QUANG HrdN PGS.TS. CHU HOANG MAU PGS.TS. TRAN THI VIOT TRUNG az( THS. Ltr TIEN DUNG THS. DOAN OTJC UAT TOA SOAN: Dai hoc Thr4i NguyOn, phudng TAn Thinh, thdnh phd Th6i NguyOn' Tel. 02 8 0. 3 8 402 8 8. Fax. 0280. 3852665 * E-mail: tapchikhcn.dhtn@ gmail'com' chi s6 1ZI)1GP-BTTTT, ngiry 261812010 cira BQ truong BQ Thong tin - Truyd-n^th0ng' thi4ng 0V20ll. rn ioir .udn, iap zzior)nqdm 20rr taiNhh in eao ihat Nguyen. In xong vh nop luu chidu http://www'lrc-tnu-edu.vn Bin dien tir tham khio iai rrang Web cira Trung ram Hoc 1i0u Dai hoc Th6i Nguyon: Gia,y ph6p Hoat dQng biio THE LE GTII BAI Tap chi Khoa hgc vd C6ng nghQ Dai hoc Th6i Nguy6n thucrng xuyOn nhAn ddng nhirng Ual Uao cua cdn bQ gidng d4y. can.bQ.nghien 9YY ud.6: illkhoa hQc'..trong vir ngouiDui hoo Th6i Nguy6n nhdm cdng bd k€t qua nghidn ctlu, bhi t6ng quan hodc nhirng thbng tin trao C6i ttruqc mgi linh vuc khoa hoc c6ng nghQ. Sau ddy ld the 1€ gui bdi cho Toa soan: 1. T4p chi chi nhAn ddng nhirng bai b6o khoa hoc chua c6ng bd tr6n c6c b5o. t4p chi khoa hgc trong nr.rcrc vd qudc t6. 2. Bai b6o khoa h'c co thti v_i€t bing titing ViQt ho4c ti6ng .. ., 3. Khi n6p cho roa so4n. m5i Uai b6o can duoc in thdnh hai b6n tr€n giAy A+. kem theo dia CD. 4. CAu trirc bai b6o. 4.1. TOn bai b6o. 4.2. Ho tOn tac gid hoqc nhom ttrc gia, co quan cdng t6c. 4.3. M5i bdi bA; khdng ddi qu6 5 trang (khoang 3.000 tu). Trong bdi b6o, o nhirng nQi tdi liCu khoa hoc kh6c, cAn dung tac gi6 da lham khdo hoAc su dpng_k*i*, n.elri€n lit,::. danh dAl tang sd (dat trong m6c r.u6ng tl) - ld sd thu tg cua tdi liQu x€p trong danh mgc tdi liOu Anh. . i .P tham khao 4.4. Torn tirt n6i dung bdi b6o: tOi tneu i50 tir bang ti6ng Vi€t va duoc dich sang tiOng Anh (k€ ca ri€u AC Uai b6o;,,dtroi muc tom t6t ti6ng Vi€t co "Tir khoa"; duoi tom tdt ti6ng Anh co "'Key words" (t6i thi6u 05 tu hodc cum tu). 4.5. TAi li6u tham kh6o: - TLTK sip x€p theo vAn A,B,C, tdi liQu titlng nu6c ngodi kh6ng phiOn 6m, kh6ng dich. - DOi vcyi tdc gia la ngudi Viqt Nam x6p theo thir tg A, B, C theo ftn (kh6ng dAo t6n len trtroc ho). - Ddi voi tac gia la ngtrdi nu6c ngodi x6p theo lhu tg A, B, C theo hp. ,, - D6i vcri nhirng tai liOu khdng co t6n tac giit xOp thu tU A, B, C cua tir dau ti6n lOn c<v quan ban hanh tdi liQu (vi duiB0 Gi6o dgc vd Ddo t4o x6p vAn B)' TLTK la s6ch. lufln 6:n cAn ghi ddy du cdc thong tin theo thu tu: t€n t6c gia hodc co quan ban lrdnh. Nam xuAt ban). ftn sdch,Nhd xudt bdn. noi xudt ban. TLTK ld bdi bao hoflc bai trong mQt cudn s6ch... cAn ghi dAy du c6c th6ng.tin.theo thfr tu: T6n tac gia. (NAm cdng b6), "TOn biri b6o", TAn Mp chi hoQc sdch, Tdp, (56), c6c s6 trang (gach ngang giira2 chir s6). 5.Hinh thfrc trinh bay: - Ngoai.phAl tieu d6, t6c gia va tom tit bdi b6.o (dAu tr4ngl) vd Summary (cu6i bdi). bdi b6o yeu .A,, phai trinh bdy tr6n kh6 ,A4 theo chidu doc. dugc chia 02 c6t v6i c6c th6ng s6 Pagesetup cu th6 nhu sau:Top:3.1cm, Bottom: 3.1cm, Left: 3.0cm. Right: 2.8cm, Header: 2.85cm, Footer: 2.85cm, With:7.25cm, Spacing:0.8cm. TOn bai b6o cO 12' chir in d6m: 10i dung bai b6o cd I 1; Font chir Unicode; hinh v6, dd thi trinh bdy phu hqp voi dQ ron-s cdt (7 .25 cn-r); c6c bdng bi€u qu6 l6n trinh bay tlreo trang ngang (Landscape)' - D6i vcyi c6c bai b6o i.O frle" bdng cdc phAn mdm chuy6n dpng nhu Latex, ACD/Chem Sketch hodc Science Helper for Word cfrng trinh bdy theo khudn dang n6u trOn. 6. Ndu bdi b6o kh6ng ducyc su dung. Ban biOn tap kh6ng tra l4i bAn th6o. 7. Titc gia hoac tac giachfnh trong nhom t6c giA cAn gni Aia chi, s6 di6n tho4i vdo cu6i A^ BAN BIEN TAP 77 (01) N¨m 2011 oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ Journal of Science and Technology CHUYÊN SAN NÔNG - SINH - Y Môc lôc Trang NGÔ XUÂN HOÀNG, VŨ THỊ QUÝ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 3 NGUYỄN THẾ HÙNG, NGUYỄN VIẾT HƯNG, THÁI THỊ NGỌC TRÂM - Ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến sinh trưởng, phát triển của giống lạc L23 vụ xuân 2010 trên diện tích đất một vụ tại huyện Hữu Lũng - tỉnh Lạng Sơn 15 NGUYỄN VIẾT HƯNG, NGUYỄN THẾ HÙNG, NGUYỄN THẾ HUẤN - Nghiên cứu ảnh hưởng của hình thức nhân giống đến khả năng sinh trưởng, phát triển và hệ số nhân giống của cây khoai môn tại Bắc Kạn 19 TRẦN TRUNG KIÊN, BÙI VĂN QUANG - Ảnh hưởng của liều lượng lân đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô chất lượng protein cao (QPM) - QP4 và ngô thường - LVN10 tại Thái Nguyên 23 ĐẶNG VĂN MINH, NGUYỄN VĂN TÂM, LÊ THỊ THU - Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón hữu cơ vi sinh sản xuất tại chỗ đến sinh trưởng, phát triển của giống lúa CTA 88 tại tỉnh Lào Cai 29 NGUYỄN VIẾT HƯNG - Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất giống lạc L23 vụ xuân 2010 trên đất một vụ tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 35 ĐẶNG VĂN MINH, ĐÀO VĂN NÚI - Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của cây phân xanh họ đậu trên đất sau khai thác khoáng sản tại tỉnh Thái Nguyên NGUYỄN HỮU GIANG - Thực trạng quản lý và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong công tác quản lý bảo vệ rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn ĐẶNG VĂN MINH, ĐẶNG KIM VUI, NGUYỄN CHÍ HIỂU - Nghiên cứu kiến thức bản địa về cây rau bò khai Erythropalum scandens BL tại vùng núi phía Bắc Việt Nam NGUYỄN HƯNG QUANG, EBRAHIMI R - Nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng thức ăn đến khả năng sản xuất của gà thịt 39 43 49 55 NGUYỄN THỊ THUÝ MỴ, TRẦN THANH VÂN, NGUYỄN TIẾN ĐẠT - Nghiên cứu ảnh hưởng của giống, mật độ bãi thả đến khả năng sản xuất thịt của gà bán nuôi nhốt ở nông hộ 59 TRẦN THỊ HOAN, TỪ TRUNG KIÊN - Nghiên cứu ảnh hưởng của khoảng cách trồng sắn lấy lá đến sản lượng lá sắn và giá thành của bột lá sắn 65 TRƯƠNG HỮU DŨNG, NGUYỄN THỊ HẠNH - Ảnh hưởng của thời gian cai sữa đến sinh trưởng của lợn con và khả năng sinh sản của lợn nái tại Việt Yên, Bắc Giang CHU HOÀNG MẬU, NGUYỄN VŨ THANH THANH, PHẠM THỊ THANH NHÀN - Đặc tính chịu hạn của một số giống ngô địa phương (zea mays ở miền núi phía bắc việt namPHÚ HÙNG, HOÀNG THỊ THU YẾN - Nghiên cứu quan hệ NGUYỄN THỊl.)THU PHƯƠNG, NGUYỄN 69 77 di truyền tôm sú (peneaus monodon) bằng kỹ thuật RAPD 83 NGUYỄN VĂN HOÀN, LÊ NGỌC CÔNG, BÙI THỊ DẬU, NGUYỄN THỊ THU HÀ, ĐINH THỊ PHƯỢNG - Đặc điểm một số kiểu thảm thực vật phục hồi tự nhiên ở tỉnh Bắc Giang 89 ĐÀM VIỆT BẮC, ĐÀM XUÂN VẬN - Biến động sử dụng đất lâm nghiệp tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam (1990-2005) 97 ĐỖ THỊ NGỌC OANH - Hệ thống trang trại của người nghèo tại khu vực miền núi tỉnh Quảng Nam và các giải pháp ĐÀM VIỆT BẮC, ĐÀM XUÂN VẬN - Các nhân tố ảnh hưởng đến biến động sử dụng đất tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam (1990-2005) NGUYỄN KIM LƯƠNG - Đánh giá hiệu quả điều trị của Simvastatin ở bệnh nhân đái tháo đường TYP2 có kháng insulin 103 107 123 77 (01) oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ 2011 Journal of Science and Technology N¨m AGRICULTURE – BIOLOGY – MEDICINE Content Page NGO XUAN HOANG, VU THI QUY - Discussion of some problems of practice and development rural in our country in the current period 3 NGUYEN THE HUNG, NGUYEN VIET HUNG, THAI THI NGOC TRAM - The influence of combinations of fertilizers on the yield of l23 peanut variety on one-crop land, Huulung district, Langson province, spring 2010 15 NGUYEN VIET HUNG, NGUYEN THE HUNG, NGUYEN THE HUAN - Effect of propagation methods on growth, development and propagation regeneration capacity of taro in Backan province 19 Tran Trung Kien, Bui Van Quang - The effect of phosphorus dosages on the growth, development and grain yeild of quality protein maize variety (QPM) - QP4 and normal maize variety - LVN10 in Thai Nguyen 23 DANG VAN MINH, NGUYEN VAN TAM, LE THI THU - Study the offects of organic fertilizers processed in local area on the growth and development of the rice variety cta88 in Laocai province 29 NGUYEN VIET HUNG - The influence of peanut density on the yield of l23 variety on one-crop land, Huulung district, Langson province, spring 2010 35 DANG VAN MINH, DAO VAN NUI - Study growth of wild legumes in the degraded soil after mining in Thainguyen province 39 NGUYEN HUU GIANG - The current situation of forest management and the participatory of local community in forest protection at huu lien special-use forest, Huulung district, Langson 43 DANG VAN MINH, DANG KIM VUI, NGUYEN CHI HIEU - Indigenous study about native plant species erythropalum scandens bl (Bo khai) in The Northern mountainous region of Vietnam 49 QUANG N. H. AND EBRAHIMI R - Study on different feed form on the performance of broilers chicken 55 NGUYEN THI THUY MY, TRAN THANH VAN, NGUYEN TIEN DAT - Effect of breeds, garden densities to performance of chicken raising semi intensive system at house hold 59 TRAN THI HOAN, TU TRUNG KIEN - Study on effect of crop density on cassava leaf yield and cost of leaf powder 65 TRUONG HUU DUNG, NGUYEN THI HANH - The influence of weaning time on the growth of piglets and reproductive performance of sows in Vietyen district, Bacgiang province 69 CHU HOANG MAU, NGUYEN VU THANH THANH, PHAM THI THANH NHAN - The drought tolerant characteristics of some upland local maize cultivars (zea mays l.) in the North of Vietnam 77 NGUYEN THI THU PHUONG, NGUYEN PHU HUNG, HOANG THI THU YEN - Study genetics diversity of shrimp (penaeus monodon) by rapd technique 83 NGUYEN VAN HOAN, LE NGOC CONG, BUI THI DAU, NGUYEN THI THU HA, DINH THI PHUONG - Characteristics of some natural forest rehabilitation in Bacgiang province 89 DAM VIET BAC, DAM XUAN VAN - Forest land-use change in ngoc phai commune, Chodon district, Backan province, Vietnam (1990-2005) 97 DO THI NGOC OANH - Farming systems of the poor in mountainous areas of Quangnam province and possible solutions 103 DAM VIET BAC, DAM XUAN VAN - Driving forces of land-use change in Ngocphai commune, Chodon district, Backan province, Vietnam (1990-2005) 107 NGUYEN KIM LUONG - Evaluation of the effectiveness of treatment in patients simvastatin typ2 diabetes insulin resistance 123 Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Ở NUỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ngô Xuân Hoàng1*,Vũ Thị Quý2 1 Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật – ĐH Thái Nguyên; 2Trường Đại học Nông lâm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ chiến lƣợc đảm bảo thực hiện thành công đƣờng lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu nỗ lực to lớn của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị và sự tham gia của cả xã hội. Sau hơn 20 năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã chủ động khai thác và phát huy các lợi thế, tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và các điều kiện thuận lợi khác để đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp sinh thái, xây dựng nông thôn mới theo hƣớng bền vững với nhiều vùng chuyên canh, sản xuất ra nhiều nông sản hàng hoá xuất khẩu có giá trị kinh tế cao nhƣ: gạo, cao su, cà phê, hạt điều, tiêu, chè, lâm sản, thuỷ sản... Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nƣớc ta từng bƣớc chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá, đời sống ngƣời dân ngày càng đƣợc cải thiện, bộ mặt nông thôn thay đổi đáng kể. Với quyết tâm cao, với thế và lực mới của đất nƣớc, nhất định Đảng và Nhà nƣớc ta sẽ lãnh đạo nhân dân vƣợt qua khó khăn thử thách, hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, đáp ứng mong đợi và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội XHCN. Từ khóa: Vấn đề, lý luận và thực tiễn, phát triển, nông thôn, Việt Nam NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Nông nghiệp và nông thôn Nông thôn là một khái niệm chỉ vùng (khu vực) hành chính bên ngoài thành thị, đối lập với nó là thành phố, thị xã; là khu vực lãnh thổ rộng lớn ngoài thành phố. Không gian nông thôn trong tiếng Anh là “Rural area” (còn gọi country hay country site). Trong không gian nông thôn bao gồm các điểm dân cƣ sinh sống, cùng với các ngôi nhà, cái sân, mảnh vƣờn, các diện tích công năng, các cơ sở hạ tầng nhƣ đƣờng xá giao thông, công viên, khuôn viên, quảng trƣờng, hệ thống cung ứng điện nƣớc, hệ thống tiêu thoát nƣớc thải, rác thải, các điểm phục vụ cho hoạt động công ích (trƣờng học, trạm xá, câu lạc bộ, sân thể thao,…), các điểm mang tính chất tôn giáo (đền, chùa, miếu, nhà thờ, nghĩa trang,…), các điểm phục vụ cho kinh tế – xã hội (bƣu điện, nhà bảo tàng, triển lãm, chợ,…), diện tích và khoảng không dành cho nghỉ ngơi, giải trí và tĩnh dƣỡng cũng nhƣ các diện tích đặc chủng khác. Tel: 0912140868 Không gian nông thôn không đồng nghĩa với việc sản xuất nông nghiệp mà rộng hơn. Nó đảm nhận nhiều chức năng đối với xã hội. Đó là những chức năng cơ bản nhất nhƣ: sản xuất lương thực, thực phẩm cho đến cấp nước ngọt tới các đô thị, cung cấp nông lâm, thuỷ hải sản và nhiều tài nguyên khác, cho đến cung ứng các khoảng không quí hiếm phục vụ cho nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái. Cuối cùng thì không gian nông thôn trong xu thế mới còn là nơi thường trú của tiểu bộ phận cư dân đô thị cùng chung sống với cư dân nông thôn. Theo Riedel (1998) thì không gian nông thôn thực hiện các chức năng sau: Chức năng định cư; Chức năng sản xuất nông nghiệp; Chức năng sinh thái; Chức năng nghỉ dưỡng; Chức năng dịch vụ cho các ngành. Phát triển nông thôn Khái niệm về phát triển nông thôn rất rộng và đa dạng, thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của từng quốc gia. + Khái niệm phát triển nông thôn gắn liền với khái niệm phát triển nông nghiệp, mục tiêu chính của phát triển nông thôn là phát triển sản xuất nông nghiệp để qua đó tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho cƣ dân nông thôn. 3 Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Quan niệm này đã đƣa đến sự thành công của cuộc “Cách mạng xanh” và rất lạc quan sau khi giải quyết một bƣớc về vấn đề an ninh lƣơng thực trong thập kỷ 60. Có thể nói, phát triển nông thôn giai đoạn này đồng nghĩa với hiện đại hoá sản xuất và đời sống cho cƣ dân nông thôn. + Ngân hàng Thế giới định nghĩa: Phát triển nông thôn là việc cải thiện mức sống của một số đông ngƣời có mức thu nhập thấp đang sinh sống ở vùng nông thôn nhằm tạo nên tiến trình phát triển nông thôn một cách tự giác và ổn định. Định nghĩa này là sự kế thừa chiến lƣợc hoạt động cho vay vốn trên quy mô các quốc gia, với sự đảm bảo đem lại nhiều lợi ích kinh tế nhất cho các nƣớc này. + Đối với các nƣớc đang phát triển, quan điểm phát triển nông thôn đa chức năng nhấn mạnh vào khía cạnh phát triển vững bền, phát triển tổng hợp cả kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, môi trƣờng… nông thôn. Theo định nghĩa của Hội đồng thế giới về môi trƣờng và phát triển (WCED) thì “phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Nhìn chung, ngƣời ta thống nhất về cơ bản 3 mục tiêu lớn nhất đối với phát triển nông thôn, đó là: (1) Đảm bảo sự tăng trƣởng về kinh tế, nâng cao thu nhập cho dân cƣ nông thôn. (2) Tăng phúc lợi xã hội, nâng cao dân trí và đời sống tinh thần cho cộng đồng ngƣời dân nông thôn. (3) Duy trì sự đứng vững của nông thôn, bảo vệ môi trƣờng, đặc biệt là trong những điều kiện quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa diễn ra nhanh. Tuy nhiên, để đạt đƣợc các mục tiêu cơ bản này, nội dung phát triển nông thôn có thể thay đổi theo từng thời kỳ, giai đoạn phát triển ở mỗi quốc gia. Trong những nƣớc nghèo hơn, mục tiêu phát triển nông thôn nghiêng nhiều về bảo đảm an ninh lƣơng thực và thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, thiết lập cơ sở hạ tầng ban đầu.Trong khi ở các nƣớc phát triển và những nơi quá trình CNH diễn ra mạnh mẽ, những cố gắng của Chính phủ tập trung nhiều ở các nội dung hỗ trợ cho nông thôn đứng 4 77(01): 3 - 13 vững, giảm thiểu ô nhiễm môi trƣờng và sự phát triển bất bình đẳng giữa các vùng… VAI TRÕ CỦA NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở NƢỚC TA Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta. Nông nghiệp đảm bảo vững chắc an ninh lƣơng thực, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; xuất khẩu nông sản đem lại nguồn ngoại tệ quan trọng cho nền kinh tế; tạo việc làm và thu nhập cho đa số ngƣời dân. Nông thôn là môi trƣờng sống của đa số nhân dân, là địa bàn hoạt động sản xuất nông nghiệp, nơi bảo tồn và phát triển các truyền thống văn hoá dân tộc. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân là nhiệm vụ chiến lƣợc, là cơ sở để đảm bảo ổn định tình hình chính trị – xã hội, bảo đảm sự phát triển hài hoà và bền vững theo định hƣớng XHCN của nền kinh tế cả nƣớc và của từng vùng lãnh thổ. Sau hơn 20 năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã chủ động khai thác và phát huy các lợi thế, tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và các điều kiện thuận lợi khác để đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp sinh thái, xây dựng nông thôn mới theo hƣớng bền vững với nhiều vùng chuyên canh, sản xuất ra nhiều nông sản hàng hoá xuất khẩu có giá trị kinh tế cao nhƣ: gạo, cao su, cà phê, hạt điều, tiêu, chè, lâm sản, thuỷ sản... Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nƣớc ta từng bƣớc chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá, đời sống ngƣời dân ngày càng đƣợc cải thiện, bộ mặt nông thôn thay đổi đáng kể. Đạt đƣợc những thành tựu đó là do có sự tập trung lãnh đạo về mọi mặt của Đảng và Nhà nƣớc ta trên mặt trận nông nghiệp và phát triển nông thôn, có sự phối hợp chỉ đạo chặt chẽ giữa các Bộ, Ban ngành Trung ƣơng với các cấp chính quyền địa phƣơng, trong đó hệ thống chính sách đầu tƣ và huy động vốn của Nhà nƣớc giữ vai trò đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp này. Vốn Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ đầu tƣ của Nhà nƣớc, vốn của các tổ chức trong và ngoài nƣớc, vốn của ngƣời dân đƣợc huy động một cách tích cực vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo… Hoạt động tài chính và huy động vốn đầu tƣ vào lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn ngày càng đƣợc xã hội hoá với nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức xã hội cùng tham gia. Từ sự phát triển của nông nghiệp bức tranh về xã hội nông thôn đã có những gam màu tƣơi sáng. Tuy nhiên cho đến nay, Việt Nam về cơ bản vẫn là một nƣớc nông nghiệp, chƣa thoát khỏi tình trạng nƣớc nghèo và kém phát triển, 73,7% dân số sống ở nông thôn với 13,26 triệu hộ, trong đó có 11 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp và 67% lực lƣợng lao động xã hội làm việc trong ngành nông nghiệp, nông nghiệp vẫn còn chiếm tới trên 20% GDP của cả nƣớc. Sức cạnh tranh của cả ngành, của phần lớn các doanh nghiệp nông nghiệp và của hàng hoá nông sản xuất khẩu của nƣớc ta còn nhiều bất cập cả về số lƣợng, về chất lƣợng, mẫu mã, chủng loại và giá cả, kinh nghiệm và uy tín thƣơng mại trên thị trƣờng thế giới. Tốc độ hội nhập kinh tế của Việt Nam còn khá khiêm tốn. Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam qua các năm rất thấp: Năm 1997 xếp thứ 49/53 nƣớc so sánh, năm 2000 xếp thứ 65/80, năm 2004 xếp thứ 77 trong số 102 nƣớc so sánh. Hiện nay khi nƣớc ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), sản xuất nông nghiệp và nông sản hàng hoá của Việt Nam đang đứng trƣớc nhiều cơ hội, đồng thời cũng đang đứng trƣớc những khó khăn thách thức. Để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn thì việc xây dựng nông thôn mới là vấn đề cấp bách. Xây dựng nông thôn mới là một tiến trình cải biến tình hình nông thôn hiện nay ngày càng phát triển vƣơn tới văn minh thời đại. Tức là nâng cao đời sống ngƣời dân không những chỉ tập trung vào việc tăng cƣờng sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp và phát triển mạnh sản xuất phi nông nghiệp mà còn nâng cao phúc lợi, cải thiện môi trƣờng sống cả về chính trị – xã hội và môi trƣờng sinh thái. 77(01): 3 - 13 MỘT SỐ THÀNH TỰU XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở NƢỚC TA Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thuỷ lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn Thuỷ lợi phát triển theo hƣớng đa mục tiêu góp phần quan trọng phát triển sản xuất nông nghiệp. Giai đoạn 2001-2005, năng lực tƣới đã tăng thêm 575 ngàn ha, năng lực tiêu tăng thêm 235 ngàn ha đƣa tổng diện tích lúa đƣợc tƣới của cả nƣớc đạt khoảng 83%, cà phê 50%, rau màu 20%. Hệ thống quản lý, vận hành hệ thống thuỷ lợi đƣợc củng cố và tăng cƣờng năng lực. Vùng ven biển đã tăng cƣờng xây dựng hệ thống các cống đập ngăn mặn, giữ nƣớc ngọt, nhiều công trình đã đƣa vào sử dụng và phát huy tác dụng. Bƣớc đầu thực hiện các công trình thuỷ lợi ven biển phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, gắn ngọt hoá với việc nuôi trồng thuỷ sản nƣớc mặn, nƣớc lợ và tận dụng và khai thác thuỷ sản mùa lũ… Giao thông và điện nông thôn: Nhờ đầu tƣ ngân sách Nhà nƣớc kết hợp thực hiện phƣơng châm “Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm” nên lĩnh vực này đã có bƣớc phát triển khá nhanh về số lƣợng. Đến nay, trên phạm vi cả nƣớc có: 96,9% số xã có đƣờng ô tô đến khu trung tâm, trong đó 70% đƣợc nhựa hoá, bê tông hoá. Đến nay, điện lƣới quốc gia đã cấp điện cho 97,95% số huyện; 96,8% số xã, phƣờng và 93,3% số hộ đƣợc sử dụng điện lƣới quốc gia. Nhà ở nông thôn: Đến nay, hầu hết các thôn, bản trong cả nƣớc đều có nhà 2- 3 tầng, sử dụng các thiết bị nội thất nhƣ đô thị; nhiều xã, thôn ở nông thôn vùng Đồng bằng Bắc bộ, vùng miền Trung đã cơ bản hoàn thành việc “xóa” nhà tranh tre, nứa lá; vùng ĐBSCL cơ bản hoàn thành việc “xóa” nhà đạp, nhà chòi… Nhiều huyện, xã ở miền Bắc và miền Trung đã cơ bản “ngói hoá” nhà ở. Riêng vùng ĐBSCL, đến nay đã xây dựng 1.100 cụm, tuyến dân cƣ, đảm bảo bố trí cho khoảng 200 ngàn hộ dân đang sống thƣờng xuyên trong vùng ngập lũ và “sống chung với lũ” khi có lũ lớn. 5 Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Trường học, trạm xã và chợ nông thôn: Giai đoạn 2000-2006, đã xây dựng thêm 24.466 phòng học, đang triển khai xây dựng tiếp 14.233 phòng học. Do đó, đến năm 2006 có hơn 40% số trƣờng học đƣợc kiên cố hoá; 99,3% số xã có trƣờng tiểu học, 90,8% số xã có trƣờng trung học cơ sở, 10,8% số xã có trƣờng trung học phổ thông; 88,3% số xã có trƣờng mẫu giáo/mầm non, có 54,5% số thôn có lớp mẫu giáo, 16,1% số thôn có nhà trẻ, thu hút các cháu trong độ tuổi đƣợc đến lớp. Đến nay cả nƣớc có 45% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã. Có 9.013 xã có trạm y tế (chiếm 99,3% tổng số xã, tăng 128 xã so với năm 2001). Khu vực nông thôn có 3.964 trạm y tế xã (chiếm 44%) đã đƣợc xây dựng kiên cố hoá. Đến năm 2006, có 3348 xã, chiếm 36,9% có cơ sở khám, chữa bệnh tƣ nhân trên địa bàn xã. Đến nay, hầu hết các huyện, cụm xã và nhiều xã xây dựng đƣợc chợ. Riêng địa bàn nông thôn có 6.940 chợ, trong đó 74,9% số chợ đã đƣợc nâng cấp. Thông tin liên lạc: hầu hết các xã trên cả nƣớc đã đƣợc chuyển phát báo chí, trong đó có 91% số xã đã có báo đến trong ngày. Tính đến năm 2006 đã lắp đƣợc hơn 2.848 tổng đài bƣu điện tại vùng nông thôn, 64/64 tỉnh thành có mạng cáp quang; 100% xã có điện thoại cố định, bình quân 6,67 máy/100 dân; có hơn 80.000 thuê bao Internet tại khu vực nông thôn; 85,5% số xã có điểm bƣu điện văn hóa. Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn: Đến 2007 có 70% dân cƣ nông thôn có nƣớc sinh hoạt hợp vệ sinh (trong đó khoảng 30% ngƣời dân đƣợc dùng nƣớc đạt tiêu chuẩn 09 của Bộ Y tế); 12% số xã có hệ thống thoát nƣớc thải chung; 28% xã có tổ chức thu gom rác thải và 51% ngƣời dân nông thôn sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh. Văn hoá - thể thao: Cuối năm 2007, cả nƣớc đã có 100% số huyện có Trung tâm văn hoá, thể thao; 38,6% số xã có nhà văn hoá; 36% số thôn (bản, ấp) có nhà văn hoá thôn và điểm vui chơi thể thao; 6,8% số thôn có điểm vui chơi của trẻ em. Có 28.272 câu lạc bộ văn hoá thể thao các loại hình ở khu vực nông thôn. 6 77(01): 3 - 13 Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện; xoá đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Do sản xuất phát triển, thu nhập tăng, đời sống nông dân ở hầu khắp các vùng đƣợc cải thiện rõ rệt. Từ năm 1996 đến nay, thu nhập bình quân đầu ngƣời ở nông thôn tăng lên hơn 2,7 lần (năm 2007, bình quân đạt 6,7 triệu đồng/ngƣời theo giá hiện hành); thu nhập bình quân 1 hộ nông thôn đạt 26,1 triệu đồng, tăng 11,3 triệu đồng (tăng 75,8% so với năm 2002). Nhờ thu nhập của ngƣời dân tăng nên điều kiện sinh hoạt của hộ nông thôn ngày càng đƣợc cải thiện, nhất là về nhà ở, mua sắm vật dụng lâu bền, phƣơng tiện đi lại và các vật dụng đắt tiền. Chiến lƣợc xóa đói giảm nghèo đƣợc đẩy mạnh với nhiều chƣơng trình (Chƣơng trình 134, Chƣơng trình 135…), chính sách, hình thức hỗ trợ cụ thể, trực tiếp cho các đối tƣợng chính sách, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn. Đến 2007, về cơ bản đã xóa đƣợc đói, tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn còn 18% (cả nƣớc là 14,9%), mặc dù chuẩn nghèo đã tăng lên. Đây là thành tựu lớn của nƣớc ta đƣợc cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thƣơng binh, gia đình liệt sĩ, ngƣời có công và các đối tƣợng chính sách, các đối tƣợng xã hội, đƣợc các cấp các ngành quan tâm, có kết quả thiết thực (năm 2005, đã xây dựng và bàn giao đƣợc 11.000 nhà tình nghĩa, hơn 81.000 nhà tình thƣơng…). Việc cứu trợ các hộ bị ảnh hƣởng bởi thiên tai, dịch bệnh đƣợc thực hiện tích cực với quy mô ngày càng lớn hơn. Riêng năm 2007, Chính phủ đã xuất gần 80 ngàn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ các hộ thiếu đói do thiên tai. Nhà nƣớc đã tăng cƣờng đầu tƣ phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao ở nông thôn, nhất là các vùng còn nhiều khó khăn, đồng thời thực hiện xã hội hóa ở những vùng có điều kiện. - Y tế: Hầu hết các xã có sổ khám bệnh cho ngƣời nghèo, nhiều bệnh dịch nguy hiểm đƣợc phát hiện, khống chế kịp thời. Năm 2006, 36,9% số xã có cơ sở khám chữa bệnh tƣ nhân; 89,8% số thôn có cán bộ y tế. Tỷ lệ ngƣời đƣợc khám, chữa bệnh năm 2006 ở khu vực nông thôn là 38,1% (cao gấp 2 lần năm 2002), 51,6% ngƣời dân nông thôn có bảo hiểm y tế. Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ - Giáo dục: Đến năm 2006, tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết chữ ở khu vực nông thôn tăng từ 90,9% năm 2002 lên 92% năm 2006. Từ năm 2007 có chính sách cho con em các hộ nghèo, cận nghèo và hộ chính sách đƣợc vay vốn với lãi suất ƣu đãi để học tập ở các trƣờng đại học, cao đẳng... (đến tháng 2 năm 2008 có hơn 30% số sinh viên thuộc hộ nghèo đƣợc vay vốn). - Văn hoá: Các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao đƣợc tăng cƣờng, nâng cao mức hƣởng thụ về văn hoá cho nhân dân. Các hình thức nhƣ thông tin, cổ động, in và phát hành sách, tài liệu phim ảnh, phát triển thƣ viện xã, nhà văn hoá xã, thôn bản, điểm vui chơi giải trí, văn nghệ quần chúng, văn hoá truyền thống và các loại hình câu lạc bộ về văn hoá nông thôn khác đƣợc tăng cƣờng. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" khơi dậy tinh thần đoàn kết ở cộng đồng dân cƣ, bƣớc đầu đã có tác động hiệu quả đến xây dựng đời sống văn hoá ở vùng nông thôn. Gia đình văn hoá, Làng văn hoá đƣợc công nhận đảm bảo chất lƣợng đã có tác động tích cực đến việc xây dựng ngƣời nông dân về tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống, nếp sống; tạo ra bộ mặt nông thôn mới, ổn định về chính trị, từng bƣớc phát triển về kinh tế - văn hoá - xã hội. - Thể dục, thể thao: Tỷ lệ ngƣời tham gia luyện tập thể dục thể thao thƣờng xuyên, nâng cao thể lực hàng năm tăng lên; hầu hết các huyện ở nông thôn đã thƣờng xuyên tổ chức Đại hội thể dục thể thao với sự tham gia đông đảo của nhân dân. Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới Kinh tế hộ tiếp tục phát triển theo hƣớng mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề, góp phần chủ yếu tạo tăng trƣởng nông nghiệp, thu nhập cho nông dân. Đến năm 2006 cả nƣớc có 10,46 triệu hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (giảm 766 nghìn hộ, giảm 6,8% so với năm 2001). Về quy mô sử dụng đất, bình quân một hộ nông nghiệp sử dụng 0,63 ha đất sản xuất nông nghiệp (tăng 12% so với năm 2001). Thực hiện “dồn điền đổi thửa”, số thửa ruộng bình quân/hộ giảm từ 6 thửa xuống còn 4-5 thửa. Nhiều hộ có kinh 77(01): 3 - 13 nghiệm và sản xuất nông nghiệp có lãi đã thuê, mƣợn thêm đất sản xuất (năm 2004 có 3,6 % số hộ thuê, mƣợn đất nông nghiệp, đến năm 2007 đã có 19% số hộ thuê, mƣợn đất). Kinh tế trang trại tiếp tục phát triển theo hƣớng đa ngành nghề, xuất hiện ngày càng nhiều gia trại, trang trại chăn nuôi, thuỷ sản đạt hiệu quả kinh tế cao. Đến nay, cả nƣớc có hơn 110 nghìn trang trại, bình quân 1 trang trại có 4,5 ha, vốn 240 triệu đồng, bình quân 3,4 lao động, tỷ suất hàng hoá đạt 95,8%. Kinh tế hợp tác có chuyển biến tích cực: Tổ hợp tác phát triển nhanh (840 ngàn tổ), hoạt động đa dạng, phù hợp với trình độ của nông dân, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long. Các HTX chuyển đổi và thành lập mới theo Luật, nhiều HTX đã thực hiện vai trò hỗ trợ kinh tế ngày càng có hiệu quả. Hiện có gần 7 ngàn HTX nông nghiệp, trong đó 84% là HTX chuyển đổi và 16% thành lập mới, năm 2005 có 88,8% số HTX nông nghiệp hoạt động có lãi. Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn được tăng cường; vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng được nâng cao; dân chủ cơ sở được phát huy; an ninh, trật tự được giữ vững Đến nay, các tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng cấp xã, thị trấn khu vực nông thôn đã cơ bản đƣợc kiện toàn, 89% số thôn, bản có tổ chức Đảng, bình quân 30 đảng viên/10.000 dân. Chất lƣợng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng ngày càng đƣợc quan tâm, phân loại năm 2006 có 62,7% tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn vững mạnh; hầu hết cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn đạt trình độ văn hoá cấp trung học trở lên; đa số đã qua đào tạo trình độ trung cấp chính trị. Phần lớn các tổ chức Đảng ở cơ sở, các đảng viên phát huy tốt vai trò là hạt nhân giữ vững sự ổn định về tƣ tƣởng chính trị; định hƣớng, vận động tổ chức nhân dân thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng cuộc sống mới trên địa bàn. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng với các đoàn thể quần chúng đang đổi mới phƣơng thức hoạt động, đóng góp tích cực trong việc vận động nhân dân thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển nông 7 Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ nghiệp và kinh tế nông thôn; các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì cùng với nhiều phong trào khác của các đoàn thể đã góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống, ổn định chính trị, xã hội ở nông thôn. Do việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ngày càng đi vào nề nếp nên đến năm 2007, có 100% xã, thị trấn đã triển khai và thực hiện Qui chế dân chủ cơ sở theo tinh thần các nghị quyết của Trung ƣơng. Chủ trƣơng “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đƣợc tổ chức khá đa dạng, với nhiều hình thức phong phú, công khai, minh bạch ở nông thôn. Ngƣời dân có điều kiện tham gia, giám sát các hoạt động của chính quyền, tổ chức chính trị, xã hội ở địa phƣơng đã có tác động mạnh, làm chuyển biến phƣơng thức lãnh đạo, công tác điều hành, quản lý và lề lối làm việc của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; nâng cao thêm tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức trong thực thi công vụ đồng thời tăng sự đồng thuận và đoàn kết ở nông thôn. MỘT SÔ KHÓ KHĂN VÀ TỒN TẠI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội còn yếu kém Đến nay, khoảng 20% khu dân cƣ nông thôn có quy hoạch, nhƣng chất lƣợng thấp, quản lý thực hiện yếu kém. Hầu hết làng, xã phát triển tự phát, cảnh quan nông thôn bị phá vỡ, nhiều nét văn hóa bị pha tạp. Quy hoạch phát triển công nghiệp và dịch vụ về nông thôn nhiều nơi thiếu thận trọng, đất trồng cây lƣơng thực có nguy cơ bị sụt giảm nghiêm trọng. Thủy lợi chƣa đáp ứng đủ nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, hiện còn 0,7 triệu ha đất lúa, 50% diện tích cà phê, 80% diện tích rau màu chƣa đƣợc tƣới tiêu chủ động. Chất lƣợng đƣờng giao thông nông thôn thấp, chƣa đáp ứng yêu cầu lƣu thông hàng hoá. Điện nông thôn không đảm bảo cả về chất lƣợng và số lƣợng. Không ít cơ sở khám chữa bệnh, trƣờng học còn tạm bợ; nhiều nhà văn hóa không phát huy đƣợc chức năng là nơi sinh hoạt cộng đồng. 8 77(01): 3 - 13 Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn còn thấp, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng ngày càng lớn; tỷ lệ hộ nghèo còn cao; phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc Năm 2006 thu nhập bình quân ở nông thôn chỉ bằng 47,8% so với đô thị, chênh lệch giữa nhóm thu nhập cao nhất với nhóm thấp nhất ở nông thôn là 6,5 lần. Tuy chuẩn nghèo của nƣớc ta còn thấp, nhƣng tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn vẫn cao, hiện còn 58 huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%, nhất là ở miền núi phía Bắc (45 huyện), tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số cao gấp 3 lần ngƣời Kinh. Xoá đói giảm nghèo chƣa thật sự bền vững, có xu hƣớng chậm lại, nguy cơ tái nghèo còn cao khi thiên tai, dịch bệnh xẩy ra Tình trạng thiếu việc làm vẫn gay gắt; hệ thống an sinh xã hội chậm đƣợc hình thành. Ở nhiều vùng chất lƣợng khám chữa bệnh, giáo dục còn thấp, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao nghèo nàn. Đời sống của một bộ phận lớn nông dân bị thu hồi đất gặp nhiều khó khăn; thu nhập từ sản xuất nông nghiệp không đủ sống, lực lƣợng lao động vào đô thị kiếm sống ngày càng tăng; một số vùng nông thôn, tệ nạn xã hội gia tăng, dân chủ cơ sở chƣa đƣợc phát huy đúng mức, an ninh trật tự diễn biến phức tạp. Những vấn đề trên đang tạo ra nhiều bức xúc, bất ổn trong xã hội nông thôn. Công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn; Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn đổi mới chậm, chưa trợ lực tốt cho sản xuất hàng hoá Số doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn còn ít và tăng chậm. Rất ít nhà máy trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, phần lớn vật tƣ nông nghiệp nhƣ phân bón, thuốc thú y, bảo vệ thực vật và máy móc nông nghiệp vẫn phải nhập khẩu (năm 2007, nhập khẩu khoảng 5,5 tỷ USD). Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn còn chiếm hơn 40% so với 20% của cả nƣớc, nhiều vùng chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp. Chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ còn rất chậm, trong giai đoạn 2001-2006, chỉ giảm bình quân gần 2%/năm. Năng suất lao động nông nghiệp còn thấp chỉ bằng khoảng 1/2 của Thái Lan, Inđônêxia và Philipin. Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Kinh tế hộ đóng vai trò chủ yếu, nhƣng phổ biến là quy mô nhỏ (36% hộ có dƣới 0,2 ha). Kinh tế trang trại mới chỉ chiếm hơn 1% tổng số hộ nông, lâm, ngƣ nghiệp của cả nƣớc. Kinh tế tập thể chậm phát triển, nhiều HTX hoạt động hình thức, chƣa làm tốt vai trò cùng với kinh tế nhà nƣớc dần trở thành nền tảng. Đổi mới, sắp xếp nông lâm trƣờng quốc doanh tiến hành chậm, việc rà soát, điều chỉnh quỹ đất đai gặp nhiều vƣớng mắc. Lao động nông thôn thiếu việc làm. Chƣa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để thu hút các doanh nghiệp đầu tƣ nhiều vào địa bàn nông thôn. Văn hoá - xã hội ở nông thôn còn nhiều bất cập như: Hệ thống an sinh xã hội yếu kém; Mức hưởng thụ văn hoá của người dân còn thấp, tệ nạn xã hội gia tăng, an ninh trật tự có diễn biến phức tạp; Xã hội nông thôn bị phân hoá, quan hệ cộng đồng bị tổn thương, tính thụ động của nông dân ở nhiều nơi còn lớn Hiện chƣa hình thành một hệ thống an sinh xã hội thống nhất và thông suốt cho các vùng nông thôn. Hệ thống hiện hành mới nhằm bù đắp cho những ngƣời có công, cứu trợ nhất thời cho những ngƣời khó khăn khi có dịch bệnh, thiên tai. Đa số nông dân phải tự lo cho bản thân và gia đình khi gặp khó khăn, rủi ro. Hiện tại mới có khoảng 50% dân cƣ nông thôn có bảo hiểm y tế, những ngƣời còn lại phải tự lo khi bị bệnh ốm đau. Nếp sống văn hoá chậm hình thành; kết quả đạt đƣợc trong xây dựng nếp sống văn hoá chƣa bền vững. Thói hƣ, tật xấu, tệ nạn xã hội vẫn gia tăng. Mức hƣởng thụ về văn hoá của nông dân còn thấp, còn có khoảng cách quá xa giữa các vùng miền; sinh hoạt văn hoá cộng đồng còn nghèo nàn, thiếu sức hấp dẫn, thu hút. Sinh hoạt văn hoá ở các vùng nông thôn chủ yếu gồm các sinh hoạt truyền thống. Các hoạt động thể dục thể thao rất ít, chủ yếu dựa vào nhà trƣờng. Tình trạng nghiện ma tuý, tệ nạn mại dâm, cờ bạc có xu hƣớng phát triển. Một số hủ tục vẫn dai dẳng, thậm chí có nơi trỗi dậy, nhất là trong ma chay, cƣới xin… Trong nông thôn đang diễn ra sự phân tầng xã hội, sự chênh lệch về điều kiện và mức sống gia tăng trong phạm vi cả nƣớc và mỗi làng, xã. Chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 10% 77(01): 3 - 13 giàu nhất với 10% nghèo nhất năm 2002 là 12,5 lần, năm 2004 là 13,5 lần. Trong khi đó các mối quan hệ cộng đồng cổ truyền, nhất là quan hệ làng xã - nền tảng xã hội nông thôn ở nhiều nơi bị xói mòn nghiêm trọng. Nhiều quan hệ cộng đồng làng, xã trƣớc đây đƣợc sử dụng rất có hiệu quả thì nay đang bị hành chính hoá. Trong khi đó quan hệ dòng họ tiếp tục tồn tại và có nơi trỗi dậy mạnh mẽ làm méo mó các mối quan hệ ở nhiều vùng nông thôn. Cho tới nay chƣa có chiến lƣợc về phát triển giai cấp nông dân. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn còn mang tính tự phát và thiếu sự chuẩn bị. Chất lƣợng lao động nông nghiệp, nông thôn còn thấp so với yêu cầu CNH, HĐH, nhất là ở vùng cao, vùng xa. Việc nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của nông dân nhiều nơi chƣa đƣợc quan tâm thƣờng xuyên đúng mức. Nhiều nơi quyền lợi của nông dân không đƣợc đảm bảo (phải đóng góp nhiều, bị thua thiệt khi bị thu hồi đất, việc thực thi dân chủ chƣa đƣợc đảm bảo). Tình trạng nghèo khó, chênh lệch thu nhập và cuộc sống, những tiêu cực trong cuộc sống, nhất là tình trạng tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm ảnh hƣởng, thậm chí xói mòn niềm tin của một bộ phận nông dân. Môi trường ngày càng ô nhiễm, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai thấp. Phát triển sản xuất nông nghiệp, ngành nghề nông thôn thƣờng tập trung vào tối đa hoá lợi nhuận kinh tế, không quan tâm đúng mức tới môi trƣờng đã gây suy thoái nghiêm trọng, bệnh dịch phát sinh trên diện rộng đang đặt ra thách thức lớn đối với sự nghiệp phát triển nông thôn bền vững. Môi trƣờng ở nhiều vùng nông thôn ngày càng bị ô nhiễm, chủ yếu do chất thải sinh hoạt, chăn nuôi, nông dƣợc. Hầu hết các vùng ven đô thị, khu công nghiệp bị ảnh hƣởng ngày càng trầm trọng. Nhiều làng nghề bị ô nhiễm nặng nề. Trong khi đó mới chỉ có 33% số hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh, 74,7% hộ có nhà tắm, 12,2% xã có công trình thoát nƣớc; 28,4% xã có tổ chức thu gom rác thải. Cùng với sự biến đổi của khí hậu toàn cầu, thiên tai có xu hƣớng gia tăng cả về tần suất và cƣờng độ, đe dọa nghiêm trọng sự phát triển bền vững của mọi vùng trong cả nƣớc. 9 Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Trong 10 năm (1995-2005), bình quân mỗi năm nƣớc ta phải chịu 7 cơn bão, 5 trận lũ, làm mất tích và chết 800 ngƣời, thiệt hại vật chất 5.000 tỷ đồng. Riêng năm 2007, mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực phòng chống, thiên tai trên diện rộng đã làm chết 462 ngƣời, thiệt hại 11.514 tỷ đồng, gần bằng 1% GDP. Tuy vậy, năng lực phòng chống còn rất hạn chế. Hệ thống cảnh báo còn nhiều yếu kém, nhất là với sóng thần, lũ quét, sạt lở núi. Hệ thống thông tin chƣa thông suốt, nhất là với ngƣ dân trên biển, ngƣời dân ở các vùng sâu, vùng xa. Cơ sở hạ tầng còn thấp kém, nhiều công trình xây dựng chƣa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật phòng chống gió bão, lũ. Hầu hết các vùng thiếu phƣơng tiện cứu hộ, cứu nạn trong bão lũ, nhất là khi có thảm họa lớn MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN NƢỚC TA Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là một trong những giải pháp lớn thực hiện Nghị quyết T.Ƣ 5 (khóa VIII) với mục đích xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hƣởng ứng phong trào này, hầu hết các địa phƣơng đã quan tâm chỉ đạo và đƣợc nhân dân đồng tình ủng hộ, phong trào này đƣợc xem là cuộc vận động chính trị - xã hội góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội của các địa phƣơng. Đến năm 2008, cả nƣớc có 14/17 triệu gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 80,67%, trong đó có 534 ngàn gia đình văn hóa tiêu biểu đƣợc biểu dƣơng tại các Hội nghị gia đình văn hóa tiêu biểu các cấp. 42/87 ngàn làng đạt tiêu chuẩn văn hóa, đạt tỷ lệ 47,87%, trong đó có hơn 7 ngàn làng văn hóa tiêu biểu đƣợc khen thƣởng ở các cấp. Ðã có 3.663 xã, 37.124 thôn (ấp) có nhà văn hóa; gần 3 triệu câu lạc bộ các loại hình, 7 ngàn tổ, đội văn nghệ quần chúng. 70/90 nghìn khu dân cƣ đƣợc đánh giá là thực hiện tốt nếp sống văn hóa trong việc cƣới, việc tang, lễ hội. Thông qua phong trào, các hoạt động “uống nước nhớ nguồn”, “lá lành đùm lá rách”, “nông dân sản xuất giỏi giúp nhau xoá đói giảm nghèo”, “thanh niên lập nghiệp”, “tổ phụ nữ tiết kiệm” và hoạt động 10 77(01): 3 - 13 nhân đạo đã huy động hàng trăm tỷ đồng góp phần giải quyết xoá nhà tạm cho các đối tƣợng chính sách, và tinh thần này càng thể hiện rõ nét tại các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng gặp phải thiên tai. Bên cạnh những kết quả rất to lớn mà phong trào đã đạt đƣợc, còn một số mặt hạn chế: Phong trào triển khai chƣa đồng đều ở các vùng, nhiều phong trào có kết quả tốt ban đầu nhƣng còn thiếu tính bền vững, nhiều quy định, quy ƣớc về nếp sống văn hóa chƣa đƣợc tự giác thực hiện, chƣa tạo ra đƣợc những chuyển biến rõ nét, vững chắc trong đời sống tinh thần của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của Nghị quyết Trung ƣơng 5 (khóa VIII): “...Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng ngƣời, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng trên địa bàn dân cƣ, vào mọi lĩnh vực và quan hệ con ngƣời...”. Thực hiện quy chế dân chủ và cải cách thủ tục hành chính ở cơ sở Cuộc vận động chính trị này đƣợc khởi động từ năm 1997 và đã đƣợc triển khai rộng rãi ở tất cả các xã trong cả nƣớc. Theo đó: Việc huy động các khoản đóng góp của dân vào việc của làng, của xã đều đƣợc bàn bạc rộng rãi trong cộng đồng thôn hoặc HĐND xã. Hơn 95% xã, phƣờng, thị trấn thực hiện niêm yết công khai các thủ tục hành chính, các khoản phí, lệ phí, đóng góp của dân, công khai các phƣơng án sản xuất, các công trình xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn có vốn dân góp đều đƣợc cộng đồng cử Ban giám sát hoặc Ban Thanh tra nhân dân giám sát chất lƣợng và chi tiêu. Do đó đã đƣợc sự đồng thuận trong việc huy động nội lực xây dựng nông thôn, chất lƣợng các công trình đƣợc nâng lên, mâu thuẫn trong nội bộ nông dân giảm hẳn, việc khiếu kiện đông ngƣời, tràn lan nhƣ thời gian trƣớc đƣợc khắc phục. Ngƣời dân có niềm tin và tích cực tham gia hơn vào công cuộc cải cách ở nông thôn. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn gắn liền với quá trình cải cách thủ tục hành chính cấp xã, phƣờng. Theo đó, việc giải quyết các thủ tục hành chính nhƣ cấp giấy phép xây dựng, đăng ký kinh doanh, địa Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ chính, hộ tịch, hộ khẩu, công chứng; chế độ cho các đối tƣợng chính sách đã đƣợc công khai hoá. Nhiều thủ tục đã đƣợc giải quyết nhanh, gọn, giảm bớt phiền hà cho nhân dân, đƣợc nhân dân đồng tình. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở hiện vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải khắc phục nhƣ việc thực hiện quy chế dân chủ gắn với cải cách thủ tục hành chính còn thiếu đồng bộ; Nhiều thủ tục hành chính còn rƣờm rà, bệnh giấy tờ chƣa giảm, làm phiền hà cho dân phải đi lại nhiều lần trong khi đó một số công chức cơ sở còn nhũng nhiễu dân; một số nơi chƣa hình thành đƣợc cơ chế giám sát của ngƣời dân… Chương trình phát triển nông thôn mới cấp xã Chƣơng trình phát triển nông thôn mới cấp xã đã đƣợc triển khai tại 14 xã điểm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (tăng lên 18 xã trong năm 2004) và khoảng 200 xã điểm của các địa phƣơng. Chƣơng trình phát triển nông thôn mới cấp xã bao gồm 5 nội dung cơ bản: phát triển kinh tế hàng hoá với một cơ chế phù hợp khai thác đƣợc lợi thế của địa phƣơng, có thị trƣờng tiêu thụ; phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với nền nông nghiệp hàng hoá đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá; xây dựng khu dân cƣ văn minh; tăng cƣờng công tác văn hoá, y tế, giáo dục trong nông thôn và xây dựng đội ngũ cán bộ; tăng cƣờng sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, phát huy vai trò của cán bộ tổ chức quần chúng, thực hiện tập trung dân chủ. Chƣơng trình phát triển nông thôn cấp xã đã triển khai đƣợc một số hoạt động nhƣ đào tạo cho cán bộ các xã điểm, triển khai qui hoạch cho 18 xã điểm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lồng ghép các chƣơng trình, dự án về khuyến nông, nƣớc sạch và vệ sinh môi trƣờng nông thôn cho 18 xã điểm. Nhờ vậy, cơ sở hạ tầng và bộ mặt nông thôn của các xã điểm đã có sự thay đổi đáng kể, nhiều hệ thống nƣớc sạch, xử lý nƣớc thải đã hình thành và đi vào hoạt động có hiệu quả. Sản xuất nông nghiệp và nhất là ngành nghề có hiệu quả cao hơn, sản phẩm làm ra cạnh tranh đƣợc trên địa bàn trong nƣớc cũng nhƣ quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, mô hình phát triển nông thôn cấp xã đã bộc lộ 77(01): 3 - 13 một số tồn tại: Kế hoạch xây dựng mô hình đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn lại không có nguồn lực đảm bảo nên hầu hết các mô hình cấp xã đều không có tính khả thi. Mặt khác mô hình được xây dựng theo dạng dự án đầu tư phát triển nên cán bộ và người dân ở "điểm" có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước mà chưa huy động được nguồn lực của người dân và cộng đồng nên chưa mang tính xã hội sâu sắc và vì vậy thiếu tính bền vững trong xây dựng nông thôn mới; Đội ngũ cán bộ xã tuy có được đào tạo, nhưng nội dung đào tạo chưa đủ tầm, tình trạng phổ biến là chưa nắm vững yêu cầu và phương pháp triển khai dự án; Bộ máy tổ chức chỉ đạo triển khai chương trình không được hình thành thống nhất, đồng bộ từ cấp trung ương xuống các địa phương, không phân định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cấp chính quyền trong việc tổ chức chỉ đạo, triển khai, theo dõi và đánh giá chương trình nên rời rạc và hiệu quả thấp. Phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn Phong trào này đƣợc khởi động đầu năm 2000 và nhanh chóng lan rộng ra các vùng quê trong cả nƣớc hƣớng vào kiên cố hoá giao thông, điện, kênh mƣơng nội đồng, trƣờng học, trạm xá, trụ sở UBND, nhà văn hoá thôn, xã... Nhiều tỉnh áp dụng phƣơng châm " Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm" đã có chính sách hỗ trợ thích hợp với các công trình nhƣ hỗ trợ từ 10-50% giá trị công trình bằng xi măng hoặc vật liệu xây dựng khác. Phong trào đã thu hút sự tham gia đóng góp tích cực của ngƣời dân vào cải tạo điều kiện sống và sản xuất ở nông thôn. Bộ mặt nông thôn đƣợc đổi thay nhanh chóng. Tuy nhiên, phong trào này cũng tồn tại một số hạn chế đó là: - Cơ sở hạ tầng phần lớn do cộng đồng tự thiết kế, xây dựng thƣờng không tuân thủ theo các tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của nhà nƣớc nên phổ biến là chất lƣợng thấp, không đáp ứng yêu cầu bền vững. - Huy động quá mức sự đóng góp của ngƣời dân và cộng đồng nên gây phản ứng tiêu cực trong bộ phận nhân dân. Đề án thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới cấp thôn, bản Năm 2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai thí điểm Đề án Xây dựng 11 Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Nông thôn mới theo phƣơng pháp tiếp cận mới “dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ”. Đề án thí điểm này đƣợc triển khai ở 15 thôn tại 14 tỉnh đại diện cho các vùng kinh tế văn hoá khác nhau. Nội dung chủ yếu gồm: Đào tạo nâng cao năng lực phát triển cộng đồng; Nâng cấp điều kiện sống cho ngƣời dân nông thôn; Hỗ trợ ngƣời dân phát triển sản xuất hàng hoá nông nghiệp, dịch vụ nông thôn để nâng cao thu nhập và phát triển mỗi làng một nghề. Qua việc sơ kết xây dựng mô hình nông thôn mới sau 2 năm thực hiện, đề án xây dựng mô hình nông thôn mới của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đạt đƣợc 6 nội dung: + Đã hình thành được 15 mô hình thực tiễn về xây dựng nông thôn mới theo phương pháp tiếp cận mới từ cộng đồng và do cộng đồng làm chủ. + Bước đầu thay đổi được nhận thức của cán bộ cơ sở và người dân trong việc xác định nội dung xây dựng nông thôn mới, các bước công việc phải làm và trình tự tiến hành, cách thức huy động nội lực tại chỗ cho xây dựng nông thôn mới; + Đã hình thành được tổ chức của người dân (Ban phát triển thôn bản), là đại diện của cộng đồng dân cư thôn, bản để tự chủ trong việc bàn bạc, lựa chọn, quyết định các nội dung xây dựng nông thôn mới và cuộc sống trên địa bàn của họ. + Khơi dậy ý thức tự chủ, sáng tạo của người dân trong phát huy nội lực xây dựng nông thôn mới, không ỷ lại vào trợ giúp bên ngoài. + Xác định rõ hơn nội dung, phương pháp, cách làm, mối quan hệ phối hợp giữa các cấp trong xây dựng mô hình nông thôn mới theo phương pháp tiếp cận từ cộng đồng thôn, bản. Tuy mô hình chƣa hoàn thiện, nhƣng đã thu hút sự quan tâm của nhiều địa phƣơng tổ chức xây dựng thêm mô hình nông thôn mới ở địa phƣơng (ngoài 15 mô hình thí điểm của Bộ). Tuy vậy, còn một số tồn tại: + Nhận thức của các ngành, các cấp ở một số địa phương về xây dựng nông thôn mới còn chưa đầy đủ, chưa đúng với chủ trương của Đề án. 12 77(01): 3 - 13 + Thiếu lực lượng tư vấn chuyên nghiệp về xây dựng nông thôn theo phương pháp tiếp cận mới nên cán bộ và người dân cơ sở rất lúng túng khi thực hiện. Kế hoạch của Ban phát triển thôn, bản phải sửa đổi nhiều lần làm chậm tiến độ thực hiện Đề án. + Chưa có cơ chế tài chính riêng để thực hiện mô hình nên đã gây ra rất nhiều khó khăn cho cơ sở trong việc tiếp nhận vốn ngân sách. Tóm lại: Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ chiến lƣợc đảm bảo thực hiện thành công đƣờng lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu nỗ lực to lớn của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, sự tham gia của cả xã hội. Với quyết tâm cao, với thế và lực mới của đất nƣớc, nhất định Đảng và Nhà nƣớc ta sẽ lãnh đạo nhân dân vƣợt qua khó khăn thử thách, hoàn thành các nhiệm vụ đề ra đáp ứng mong đợi và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội XHCN. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ban chỉ đạo xây dựng Đề án: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, Tờ trình Bộ Chính trị, Hà Nội tháng 6/2008. [2]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đề án: Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Hà Nội, 5/2009. [3]. Chi cục Phát triển nông thôn, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, Đề án chương trình “Xây dựng mô hình nông thôn mới Thành phố Hà Nội”, Hà Nội, 3/2009. [4]. Nguyễn Trung Dũng, Phát triển tổng hợp bền vững không gian nông thôn – Hướng tới một làng quê thuần Việt trong thế kỷ 21, Hà Nội, 6/2009. [5]. Đặng Kim Sơn, Vũ Trọng Bình, “Một số lý luận về phát triển nông thôn”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 8/2007. [6]. Nguyễn Văn Thƣờng và Nguyễn Kế Tuấn, (2007), Kinh tế Việt Nam năm 2006 – Chất lượng tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. [7]. Nguyễn Văn Thƣờng và Nguyễn Kế Tuấn, (2008), Kinh tế Việt Nam năm 2007 – Năm đầu tiên gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. [8]. Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân, (2004), Một số vấn đề kinh tế – xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13 SUMMARY DISCUSSION OF SOME PROBLEMS OF PRACTICE AND DEVELOPMENT RURAL IN OUR COUNTRY IN THE CURRENT PERIOD Ngo Xuan Hoang1, Vu Thi Quy2 1 College of Technology and Economics - TNU; 2College of Agriculture and Forestry- TNU Development of agriculture, farmers and rural areas is a strategic task to ensure successful implementation of the policy of industrialization and modernization of the country under a socialist orientation, requires tremendous effort of the entire Party, the political system and participation of society. After 20 years of transition to market economy discourse, agriculture and rural Vietnam has actively exploit and promote the advantages and potentials of natural resources, land, labor and other things other advantages to boost the development of ecological agriculture and building a new countryside in a sustainable manner with the specialized farming, much agricultural produce export goods with high economic value as: Rice, rubber, coffee, cashew nuts, pepper, tea, forestry, fisheries ... The economic structure of agriculture, rural water. I wish I wish I had step shift towards industrialization, fishing life enough people increasingly improve, face significant changes countryside. With determination, the position and strength of our country, most of the Party and State will lead the people to overcome challenges and fulfill the tasks set out expectations and confidence of People in the Party and the socialist regime society. Key words: Problems, theories and practices, development, rural, Vietnam Tel: 0912140868 13 Nguyễn Thế Hùng và cs 14 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 15 - 18 Nguyễn Thế Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 15 - 18 ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC TỔ HỢP PHÂN BÓN ĐẾN SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN CỦA GIỐNG LẠC L23 VỤ XUÂN 2010 TRÊN DIỆN TÍCH ĐẤT MỘT VỤ TẠI HUYỆN HỮU LŨNG - TỈNH LẠNG SƠN Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Viết Hƣng*, Thái Thị Ngọc Trâm Trường Đại học Nông Lâm - Thái Nguyên TÓM TẮT Hữu Lũng là một huyện trung du của tỉnh Lạng Sơn, nơi có điều kiện khí hậu, đất đai tƣơng đối thuận lợi cho cây lạc sinh trƣởng phát triển. Thí nghiệm vụ xuân năm 2010 tại Hữu Lũng tập trung nghiên cứu ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến sinh trƣởng phát triển của cây lạc. Kết quả cho thấy tổ hợp phân bón (5000 kg phân hữu cơ + 500 kg vôi bột +30 kg N +90 kg P 2O5 +60 kg K2O/ha) là thích hợp nhất với giống L23 trên đất một vụ lúa của huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn. Từ khóa: Cây lạc, phân bón, năng suất, đất một vụ ĐẶT VẤN ĐỀ Hữu Lũng là một huyện trung du của tỉnh Lạng Sơn, nơi có điều kiện khí hậu, đất đai tƣơng đối thuận lợi cho cây lạc sinh trƣởng phát triển. Tuy nhiên hiện nay trong quá trình canh tác lạc, ngƣời dân vẫn sử dụng các giống cũ và canh tác theo phƣơng thức truyền thống. Năng suất cây lạc rất thấp, chủ yếu để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của gia đình, có dƣ thừa mới mang bán. Sản xuất manh mún và hiệu quả kinh tế thấp. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã và đang tập trung nghiên cứu, khảo nghiệm tìm ra những bộ giống lạc thích hợp nhất cho từng vùng lãnh thổ, trong đó có vùng trung du miền núi phía Bắc. Kế hoạch của huyện trong những năm tới sẽ triển khai đƣa các giống lạc mới vào sản xuất, khuyến cáo nông dân đƣa cây lạc vào công thức luân canh với lúa, đồng thời chuyển một số diện tích sản xuất lúa năng suất thấp, không chủ động nƣớc tƣới sang trồng lạc. Nghiên cứu đƣợc tiến hành với mục tiêu tìm ra tổ hợp phân bón thích hợp nhằm nâng cao năng suất lạc trên đất một vụ lúa của huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn; trên cơ sở đó, góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất lạc trên đất một vụ lúa của huyện. PHƢƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM - Thí nghiệm đƣợc tiến hành trên giống lạc L23. Thí nghiệm đƣợc bố trí theo phƣơng Tel: 0912386574; Email: Hathuyduc2002@yahoo.com pháp khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh gồm 05 công thức, 03 lần nhắc lại. (1) Nền = 5 tấn phân hữu cơ + 500 kg vôi bột/ha. (2) Nền + 400 kg NPK (5:10:3)/ha (Đ/c). (3) Nền + 20 kg N + 70 kg P2O5 + 40 kg K2O/ha. (4) Nền + 30 kg N + 90 kg P2O5 + 60 kg K2O/ha. (5) Nền + 40 kg N + 100 kg P2O5 + 80 kg K2O/ha. - Diện tích ô thí nghiệm là 7,5m2 (1,5m x 5m) - Số ô thí nghiệm: 3 x 5 = 15 (ô). - Tổng diện tích thí nghiệm: 112,5 m2 (không kể dải bảo vệ) - Xử lý số liệu thí nghiệm theo phần mềm IRRISTAT 4.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến các giai đoạn sinh trƣởng phát triển của giống lạc L23 vụ Xuân 2010 Sau khi lạc mọc mầm, gặp điều kiện thuận lợi nên cây lạc sinh trƣởng phát triển nhanh, mạnh. Ở công thức 1, lạc ra hoa sớm nhất (31 ngày) và sớm hơn công thức đối chứng 1 ngày. Công thức 3 lạc ra hoa cùng với công thức đối chứng (32 ngày). Các công thức còn lại đều ra hoa muộn hơn đối chứng (1 - 2 ngày). Các công thức thí nghiệm đều có thời gian ra hoa dài hơn hoặc bằng công thức đối chứng. Chênh lệch giữa các công thức không lớn, chỉ từ 1 đến 3 ngày. Công thức 1 có thời gian ra hoa bằng công thức đối chứng và ngắn nhất trong các công thức thí nghiệm (30 ngày). Tổng thời gian sinh trƣởng ở các công thức có 15 Nguyễn Thế Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ chiều hƣớng tăng dần theo mức phân bón ở các công thức (từ 110 đến 118 ngày). Trong đó, các công thức có mức phân bón cao hơn đối chứng (công thức 3, 4, 5) thì có tổng thời gian sinh trƣởng đều dài hơn đối chứng. Số cành cấp 1 trên cây ở công thức 1 và công thức 5 thấp hơn so với công thức đối chứng 0,3 cành/cây và thấp hơn chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Số cành cấp 2 trên cây ở công thức 1 và công thức 5 cũng thấp hơn so với công thức đối chứng (0,6 - 0,9 cành/cây) chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Công thức 4 có số cành cấp 2 trên cây cao hơn công thức đối chứng 0,2 cành/cây và cao hơn chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Nhƣ vậy ta nhận thấy khả năng phân 77(01): 15 - 18 cành của giống lạc L23 ở công thức phân bón 4 là mạnh nhất. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến mức độ nhiễm một số bệnh của giống lạc L23 vụ Xuân 2010 Mức độ nhiễm bệnh ở các công thức đều tƣơng đƣơng nhau và tƣơng đƣơng đối chứng. Bệnh gỉ sắt ở các công thức đều nhiễm nhẹ (cấp bệnh 3), riêng công thức 1 tỉ lệ nhiễm cao hơn các công thức khác và cao hơn đối chứng (cấp bệnh 5). Bệnh đốm đen và đốm nâu cũng tƣơng tự, hầu hết các công thức đều ở cấp bệnh 3 (nhiễm nhẹ), riêng ở công thức 5 thì tỉ lệ nhiễm bệnh cao hơn (cấp bệnh 5), bệnh héo xanh vi khuẩn ở điểm 1 (nhẹ). Bảng 1. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến các giai đoạn sinh trƣởng phát triểnvà khả năng phân cành Thời gian mọc...ra hoa (ngày) 31 32 32 33 34 - Công thức 1 2 (Đ/c) 3 4 5 CV% LSD 5% Thời gian ra hoa (ngày) 30 30 31 33 33 - Tổng thời gian sinh trƣởng (ngày) 110 111 112 115 118 - Cành cấp 1 (cành/cây) Cành cấp 2 (cành/cây) 4,9 5,2 5,3 5,2 4,9 2,5 0,2 1,6 2,5 2,6 2,7 1,9 4,4 0,2 Bảng 2. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến mức độ nhiễm một số bệnh ở giống lạc thí nghiệmn L23 vụ Xuân 2010 Bệnh hại Công thức 1 2 (Đ/c) 3 4 5 Gỉ sắt (cấp bệnh) 5 3 3 3 3 Đốm đen (cấp bệnh) 3 3 3 3 5 Đốm nâu (cấp bệnh) 3 3 3 3 5 Héo xanh VK (điểm) 1 1 1 1 1 Bảng 3. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của giống lạc L23 vụ Xuân 2010 Công thức Tổng số quả/ cây Số quả chắc/ cây Tỷ lệ quả 1 nhân (%) Tỷ lệ quả 3 nhân (%) P 100 quả (g) P 100 hạt (g) Tỷ lệ hạt/quả (%) NS cá thể (g/cây) NSLT (tạ/ha) NSTT (tạ/ha) 1 2 (Đ/c) 3 4 5 CV% LSD 5% 13,6 15,6 17,0 17,5 16,6 3,5 10,5 12,9 14,2 14,7 14,0 2,3 13,3 11,1 11,2 9,2 13,4 - 0,6 0,0 0,0 0,0 0,2 - 170,5 171,2 171,6 172,3 172,5 4,1 68,5 69,1 69,3 70,4 71,1 6,2 68,2 68,4 68,5 68,6 68,0 3,1 13,9 18,0 20,3 21,4 20,1 2,8 46,3 60,0 67,7 71,2 67,1 2,8 19,1 22,9 26,2 29,3 26,2 4,6 1,1 0,6 - - 0,2 0,3 0,2 1,0 3,3 2,2 16 Nguyễn Thế Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Triệu đồng/ha Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống lạc L23 vụ Xuân 2010 - Ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến tổng số quả/cây: Tổng số quả/cây ở công thức 1 và công thức 5 là thấp hơn so với công thức đối chứng (1,0 - 2,0 quả/cây). Nhƣng chỉ ở công thức 1 là thấp hơn chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Công thức 3 và công thức 4 có tổng số quả/cây cao hơn so với đối chứng từ 1,4 1,9 quả/cây và chắc chắn ở độ tin cậy 95%. - Ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến khối lượng 100 quả: Khối lƣợng 100 quả ở công thức 1 thấp hơn so với công thức đối chứng 0,7g và chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Các công thức 3, 4 và 5 đều là các công thức có khối lƣợng 100 quả cao hơn công thức đối chứng từ 0,4 - 1,3g và chắc chắn ở độ tin cậy 95%. - Ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến năng suất lý thuyết: Năng suất lý thuyết đạt cao nhất ở công thức 4 (71,2 tạ/ha) và năng suất lý thuyết thấp dần ở các công thức có mức phân bón thấp hơn và cao hơn, thấp nhất là ở công thức 1 với mức phân bón nền. Năng suất lý thuyết ở các công thức 3, 4, 5 cao hơn ở công thức đối chứng từ 7,1 - 11,2 tạ/ha và chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Riêng công thức 1 có năng suất lý thuyết thấp hơn so với công thức đối chứng 13,7 tạ/ha ở độ tin cậy 95%. - Ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến năng suất thực thu: Giống nhƣ năng suất lý thuyết, năng suất thực thu ở các công thức cũng cao nhất là công thức 4 (29,3 tạ/ha) và thấp hơn ở các công thức còn lại, thấp nhất là ở công thức 1 (19,1 tạ/ha). Năng suất thực thu ở công thức 1 thấp hơn so với công thức đối chứng 3,8 tạ/ha chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Công thức 3 và công thức 5 có năng suất thực thu tƣơng đƣơng nhau và đều cao hơn so với công thức đối chứng ở độ tin cậy 95%. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón khác nhau đến hiệu quả kinh tế giống lạc L23 trong vụ Xuân 2010 Qua hạch toán kinh tế, thí nghiệm ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón khác nhau đến giống lạc L23 trong vụ Xuân 2010 cho kết quả nhƣ trình bày ở biểu đồ 1. Với chế độ chăm sóc nhƣ nhau và mức đầu tƣ nhƣ đã trình bày thì ta thấy: tổng thu và lãi thuần ở các công thức có sự khác biệt. Công thức 4 cho năng suất lạc cao nhất (29,3 tạ/ha), đồng thời tổng thu và lãi thuần cũng đạt cao nhất so với các công thức khác trong thí nghiệm (31,18 triệu đồng/ha và 12,77 triệu đồng/ha). Lãi thuần cao hơn công thức đối chứng là 4,65 triệu đồng/ha. Ở công thức 3 và công thức 5 cho năng suất nhƣ nhau (26,2 tạ/ha), nhƣng do mức chi phí cho phân bón ở công thức 5 lớn hơn (3,2 triệu đồng/ha) nên lãi thuần thấp hơn so với công thức 3 (3,2 triệu đồng/ha). Công thức 3 cho lãi thuần cao hơn đối chứng là 1,33 triệu đồng/ha, trong khi đó lãi thuần ở công thức 5 lại thấp hơn đối chứng 1,82 triệu đồng/ha. Tổng thu của công thức 1 thấp hơn so với công thức đối chứng (5,7 triệu đồng/ha), trong khi mức đầu tƣ cho công thức 1 thấp hơn công thức đối chứng 1,44 triệu đồng/ha nên lãi thuần của công thức 1 thấp hơn đối chứng 4,26 triệu đồng/ha. 50.00 Thu Chi Lãi thuần 43.95 39.30 40.00 30.00 77(01): 15 - 18 39.30 34.35 29.85 28.65 24.79 31.18 33.05 26.23 20.00 12.77 9.45 8.12 10.00 6.25 3.86 0.00 1 2 (Đ/c) 3 4 5 Công thức Biểu đồ 1. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón khác nhau đến hiệu quả kinh tế giống lạc L23 trong vụ Xuân 2010 17 Nguyễn Thế Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 15 - 18 KẾT LUẬN Giống lạc L23 có khả năng thích ứng tốt và phù hợp với điều kiện sản xuất ở vùng sinh thái huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, đƣợc ngƣời dân địa phƣơng ủng hộ và đón nhận. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã bƣớc đầu xác định đƣợc giống L23 có khả năng cho năng suất cao hơn các giống tham gia thí nghiệm từ 5,8 - 11,1 tạ/ha. Nên có thể phát triển rộng ra sản xuất ở Hữu Lũng, Lạng Sơn. Tổ hợp phân bón (5000kg phân hữu cơ + 500kg vôi bột + 30kg N + 90kg P2O5 + 60kg K2O/ha) là thích hợp nhất với giống L23 trên đất một vụ lúa của huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn. Cần tiếp tục nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật thâm canh lạc: mật độ, mức phân bón cho giống đƣợc lựa chọn để xác định đƣợc hiệu quả của biện pháp này một cách chắc chắn, để phổ biến ra ngoài sản xuất tại vùng lạc ở Hữu Lũng, Lạng Sơn, cũng nhƣ các huyện trong tỉnh. (2000), Kỹ thuật đạt năng suất lạc cao ở Việt nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. TÀI LIỆU THAM KHẢO [7]. Xu Zeyong (1992), Groundnut production and research in East Asia in the 1980s, in groundnut - a global perspective, ICRISAT, Patancheru, Andhra Pradesh 502324, India, pp.157 - 175. [1]. Ngô Thế Dân (chủ biên), Nguyễn Xuân Hồng, Đỗ Thị Dung, Nguyễn Thị Chinh, Vũ Thị Đào, Phạm Văn Toản, Trần Đình Long, C.L.L. Gowda [2]. Đƣờng Hồng Dật (2007), Cây lạc và biện pháp thâm canh nâng cao hiệu quả sản xuất, Nxb Thanh Hóa. [3]. Trần Đình Long, Nguyễn Văn Chinh, Nguyễn Văn Thắng, Hoàng Minh Tâm (1999), “Tổng qua tình hình nghiên cứu phát triển tiến bộ trồng lạc ở Việt Nam trong thời gian qua và phƣơng hƣớng trong những năm tới”, Hội thảo về kỹ thuật trồng lạc toàn quốc ở Thanh Hoá. [4]. Boote K.J., Keting DL. (1990), “Growth stages of pranut”, Arachis hypogaea L, Jounrnal series, Florida Agricultural Experiment stations. [5]. Gregory W.C; Krapovickas A. and Gregory M. P (1980), Structure variation evoluation and clasification in Arachis; Advances in Legume science. Proceedings of the International Legume Conference. [6]. Sankara Reddi G.H (1988), Cultivation, storage and marketing in groundnut, India Council of Agricultural Research, kridhi Anusandhan Bhavan, Pusa, New Delhi, pp. 318 - 382. SUMARY THE INFLUENCE OF COMBINATIONS OF FERTILIZERS ON THE YIELD OF L23 PEANUT VARIETY ON ONE-CROP LAND, HUU LUNG DISTRICT, LANG SON PROVINCE, SPRING 2010 Nguyen The Hung; Nguyen Viet Hung; Thai Thi Ngoc Tram College of Agriculture and Forestry- TNU Huu Lung is a midland district of Lang Son Province, where the climatic conditions, land is relatively favorable for peanut growth and development. The experiment in spring 2010 in Huu Lung focused to study the effects of combinations of fertilizers to the growth and development of peanut. Results showed that combined fertilizer (5000 kg manure + 500 kg lime + 30 kg N + 90 kg P2O5 + 60 kg K2O/ha) is most appropriate for a variety L23 on the one-crop land of Huu Lung District, Lang Son. Keywords: Groundpeanut, fertilizers, yield, one-crop land Tel: 0912386574; Email: Hathuyduc2002@yahoo.com 18 Nguyễn Viết Hƣng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 19 - 22 NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA HÌNH THỨC NHÂN GIỐNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ HỆ SỐ NHÂN GIỐNG CỦA CÂY KHOAI MÔN TẠI BẮC KẠN Nguyễn Viết Hƣng*, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Thế Huấn Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Nghiên cứu ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến khả năng sinh trƣởng, phát triển và khả năng nhân giống của cây khoai môn tại Bắc Kạn cho thấy: Cây giống khoai môn đƣợc nhân giống trồng từ củ G1 từ cây invitro có khả năng cho năng suất đạt 65.65 tạ/ha, cao hơn cây khoai môn của Bắc Kạn trồng từ củ con và cây khoai môn nuôi cấy invitro, nhƣng khả năng nhân giống thấp hơn cây khoai môn nuôi cấy invitro. Nhân giống khoai môn trồng từ nuôi cấy invitro cho năng suất chƣa cao, nhƣng khả năng nhân giống đạt cao 7,8 củ con/gốc tức hệ số nhân giống đạt 1/10 cao hơn nhân giống bằng phƣơng pháp truyền thống gấp gần 02 lần. Từ khóa: Cấy môn, khoai môn, năng suất, số củ, nhân giống ĐẶT VẤN ĐỀ Cây khoai môn (Colocasia esculeuta L. Schott)là cây một lá mầm thuộc họ ráy Araceae, chi Colocasia. Đây là cây đƣợc trồng nhiều trên các loại đất khác nhau từ đất ruộng vƣờn ở đồng bằng đến đất đồi dốc ở miền núi. Sản phẩm của cây khoai môn đƣợc dùng làm lƣơng thực vì có giá trị dinh dƣỡng cao. Tại Bắc Kạn, khoai môn đã đƣợc trồng ở một số hộ gia đình thuộc vùng đồng bào dân tộc Dao, Tày, Nùng,… nhƣng với diện tích nhỏ lẻ nên năng suất thấp, sản lƣợng không đáng kể. Trong những năm vừa qua, trên địa bàn tỉnh đã có những đề tài, dự án hỗ trợ nhằm giúp bà con các dân tộc nhân rộng diện tích trồng khoai môn. Một trong những khó khăn trong việc phát triển diện tích cây khoai môn là thiếu giống do hệ số nhân giống của cây khoai môn thấp. Hơn nữa, việc tổ chức sản xuất và chỉ đạo khâu tuyển chọn giống và đầu tƣ thâm canh chƣa đƣợc chú ý nên năng suất khoai chƣa cao, tỷ lệ củ đạt tiêu chuẩn làm giống còn rất thấp. Theo Nguyễn Thị Ngọc Huệ (2002) hệ thống cung cấp giống khoai môn hiện nay là hệ thống không chính thức, chủ yếu là do nông dân tự để giống, trao đổi, mua hoặc xin của họ hàng trong, giữa các cộng đồng lân cận do đó nguồn giống để phát triển diện tích lớn gặp nhiều khó khăn. Nhân giống khoai bằng công nghệ nuôi cấy mô đã đƣợc áp dụng nhiều nơi trên thế giới, cây con Tel: 0912386574; Email: Hathuyduc2002@yahoo.com nhân bằng phƣơng pháp nuôi cấy mô giữ đƣợc đặc tính di truyền từ cây mẹ và có khả năng sinh trƣởng đồng đều, năng suất củ cao, K. Murakami và cs (2006). Ở Việt Nam, nhân giống cây khoai môn bằng phƣơng pháp nuôi cấy mô thực sự chƣa đƣợc nghiên cứu. Vì vậy việc đánh giá khả năng sinh trƣởng và khả năng nhân giống của cây khoai môn nhân giống bằng nuôi cấy invitro, nhằm cung cấp đủ nguồn giống khoai với chất lƣợng tốt cho tỉnh Bắc Kạn. Nên việc nghiên cứu về ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến khả năng sinh trƣởng, phát triển, hệ số nhân giống cây khoai môn tại Bắc Kạn là hết sức cần thiết. NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Thí nghiệm đƣợc nghiên cứu trên cây khoai môn nuôi cấy invitro, củ G1 từ cây nuôi cấy invitro và củ giống lấy từ củ con đƣợc trồng từ năm trƣớc. Tất cả các vật liệu nghiên cứu đều có nguồn gốc từ khoai Bắc Kạn. Nội dung nghiên cứu - Nghiên cứu ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến khả năng sinh trƣởng, phát triển và năng suất của khoai môn. Phƣơng pháp nghiên cứu Thí nghiệm gồm: 03 công thức đƣợc bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn toàn với 03 lần nhắc lại với diện tích ô thí nghiệm 20m2. Thí nghiệm đƣợc trồng với mật độ 70cm x 40cm. Công thức 1: Trồng từ củ con giống khoai môn Bắc Kạn (đ/c) 19 Nguyễn Viết Hƣng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Công thức 2: Trồng từ củ G1 từ cây invitro Công thức 3: Trồng từ cây invitro - Quy trình thí nghiệm theo quy trình sản xuất khoai môn của Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Các chỉ tiêu theo dõi theo phƣơng pháp thí nghiệm đồng ruộng hiện hành. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Từ tháng 03 năm 2009 đến tháng 12 năm 2009 tại thị trấn Bằng Lũng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Nuôi cấy mô là một biện pháp nhân giống nhanh nhiều loại cây trồng, nhƣng không phải cây trồng nào khi tiến hành nhân giống bằng phƣơng pháp này cũng đem lại hiệu quả nhƣ mong muốn. Để xác định hiệu quả chính xác của phƣơng pháp này đối với cây khoai môn chúng tôi đã so sánh khả năng sinh trƣởng của cây khoai môn đƣợc nhân giống bằng ba hình thức là cây nuôi cấy invitro, củ G1 từ cây nuôi cấy invitro và khoai môn Bắc Kạn, kết quả đƣợc trình bày ở bảng 1. Số liệu bảng 1 cho thấy: Chiều cao cây của cây ở công thức 1 và công thức 2 có mức độ 77(01): 19 - 22 sinh trƣởng tƣơng đƣơng nhau, đạt 71,77 72,07cm. Riêng cây invitro có mức độ sinh trƣởng chiều cao thấp hơn, đạt 67,40cm. Tổng số lá /cây chính của cả ba công thức tham gia nghiên cứu đạt từ 8,63 - 8,80 lá/cây. Số thân phụ của cây quyết định đến số củ con của khoai môn khi thu hoạch, kết quả theo dõi cho thấy số thân phụ của công thức trồng từ cây nuôi cấy mô có số thân phụ lớn nhất đạt trung bình 11,2 cây/gốc, sự sai khác có ý nghĩa ở mức 95%. Kết quả theo dõi thời gian lụi lá của cây khoai môn nhân giống bằng invitro có thời gian vào cuối tháng 12, trong khi cây khoai trồng từ củ bi bình thƣờng thì có thời gian lụi lá từ đầu tháng 12. Kết quả so các yếu tố cấu thành năng suất của các loại củ khoai môn đƣợc thể hiện qua bảng 2. Số liệu bảng 2 cho thấy, cây đƣợc trồng từ củ G1 cho củ cái có kích thƣớc nhƣ đƣờng kính củ (58,17mm) và chiều cao củ (83,11mm) lớn hơn hẳn công thức 1 và công thức 3. Khối lƣợng củ cái và năng suất là các chỉ tiêu cuối cùng đƣợc ngƣời trồng khoai quan tâm. Bảng 1. Ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến khả năng sinh trƣởng của cây khoai môn Bắc Kạn Chiều cao cây cuối cùng (cm) 72,07 b Tổng số lá (lá/cây) 8,80 a Số thân cây phụ (cây) 5,2 a Thời gian lá lụi hết 5/12 Công thức 2 71,77 b 8,67 a 6,9 a 5/12 Công thức 3 67,40 a 8,63 a 11,2b 23/12 CV% 9,65 7,82 8,62 - LSD05 2,80 0,32 1,91 - Công thức Công thức 1 (đ/c) Bảng 2. Ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến kích thƣớcvà trọng lƣợng củ cái của giống khoai môn Bắc Kạn khi thu hoạch Chỉ tiêu Đƣờng kính củ cái (mm) Chiều cao củ cái (mm) Khối lƣợng củ cái (g) So với đ/c (%) Công thức 1 (đ/c) 53,94 70,00 154,10 100,00 Công thức 2 58,17 83,11 180,30 117,00 Công thức 3 51,94 68,67 150,40 97,62 CV% 7,13 10,29 8,96 - LSD05 6,38 7,31 7,67 - Công thức 20 Nguyễn Viết Hƣng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, khối lƣợng củ cái của các công thức thí nghiệm đạt khá cao, từ 150,40 - 180,30g/củ. Trong đó cây trồng từ củ khoai môn Bắc Kạn và cây nuôi cấy invitro có khối lƣợng củ cái tƣơng đƣơng nhau, riêng công thức trồng từ củ G1 cho khối lƣợng củ cái cao hơn hẳn, đạt 180,30 g/củ cao hơn so với đối chứng 17%, sự sai khác có ý nghĩa ở mức tin cậy 95%. Một trong những khó khăn của việc phát triển diện tích trồng khoai môn hiện nay là thiếu giống. Tính trung bình muốn phát triển 1 ha diện tích khoai môn cần từ 4-5 tạ củ giống, lƣợng giống khoai môn hiện nay chủ yếu do ngƣời trồng giữ lại những củ con từ vụ trƣớc. Chính vì vậy việc tăng số lƣợng củ con cũng chính là một trong những yếu tố góp phần nâng cao hệ số nhân giống, góp phần giải quyết khó khăn về giống cho ngƣời trồng. Đánh giá khả năng nhân giống của các công thức thí nghiệm thông qua số lƣợng và kích thƣớc của củ con đƣợc trình bày qua bảng 3. Để tiện cho việc phân loại chúng tôi phân các loại củ con làm ba loại. Loại 1 là các củ con có đƣờng kính củ lớn hơn 3 cm, loại 2 là các 77(01): 19 - 22 củ có đƣờng kính củ từ 2-3 cm, loại 3 là các củ nhỏ kích thƣớc nhỏ hơn 2 cm. Số liệu bảng 3 cho thấy, trong các công thức thí nghiệm công thức khoai trồng từ cây nuôi cấy mô có số tuy số lƣợng củ loại 1 không có, nhƣng số lƣợng củ loại 2 đạt trung bình 7,8 củ/gốc, trong khi công thức khoai trồng từ giống G1 và giống khoai đƣợc để giống bằng phƣơng pháp truyền thống đều có số củ loại 2 chỉ đạt từ 2,2-2,4 củ/gốc. Cả ba công thức thí nghiệm đều có những củ con có kích thƣớc nhỏ hơn 2cm, loại củ này khi đem ra trồng cây con phát triển rất kém, do vậy khi nghiên cứu biện pháp kỹ thuật cho giống khoai môn Bắc Kạn cần có biện pháp tỉa bớt các thân phụ quá nhỏ để tăng cƣờng dinh dƣỡng nuôi củ. Ảnh hƣởng của các hình thức nhân giống cây khoai môn tới năng suất của các công thức thí nghiệm đƣợc thể hiện qua đồ thị 1. Năng suất là chỉ tiêu cuối cùng thể hiện rõ nhất kết quả sau một vụ trồng khoai. Trong thí nghiệm, công thức trồng từ cây nuôi cấy invitro (công thức 3) có năng suất tƣơng đƣơng với đối chứng (công thức 1) trồng từ củ con giống khoai môn Bắc Kạn nhƣng thấp hơn công thức 2. Bảng 3. Ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến số con củ/gốc và khối lƣợng củ của khoai môn Bắc Kạn Chỉ tiêu Công thức Công thức 1 (đ/c) Công thức 2 Công thức 3 Củ loại 1 Số củ Khối lƣợng (củ) củ (g) 2,3 59,3 1,7 60,5 - Số củ (củ) 2,4 2,2 7,8 Củ loại 2 Khối lƣợng củ (g) 41,7 43,5 35,1 Số củ (củ) 3,2 2,6 3,9 Củ loại 3 Khối lƣợng củ (g) 21,4 19,8 20,5 65.65 66 64 62 60 59.59 59.42 Năng suất (tạ/ha) 58 56 Công thức 1 Công thức 2 Công thức 3 Đồ thị 1. Ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến năng suất của khoai môn Bắc Kạn 21 Nguyễn Viết Hƣng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Tuy vậy, số củ con lại nhiều hơn, nên rất phù hợp cho mục tiêu nhân giống nhanh. Công thức 2 trồng từ củ G1 có năng suất cao hơn hai công thức còn lại, đạt 65,65 tạ/ha. Kết quả này cho thấy, việc chọn lọc giống chuẩn và dùng hình thức nhân giống vô tính invitro để nhân giống, sau đó lấy củ G1 của cây invitro để trồng trong sản xuất sẽ góp phần tạo ra một ruộng khoai đồng đều, và có khả năng cho năng suất cao. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ Kết luận - Cây khoai môn G1 từ cây invitro có khả năng cho năng suất đạt 65.65 tạ/ha, cao hơn hẳn cây khoai môn của Bắc Kạn trồng từ củ con và cây khoai môn nuôi cấy invitro, nhƣng khả năng nhân giống thấp hơn cây khoai môn nuôi cấy invitro. - Cây khoai môn invitro không cho năng suất cao, nhƣng có khả năng nhân giống nhanh đạt 7,8 củ con/gốc cao gấp 2 lần so với trồng bằng củ truyền thống. 77(01): 19 - 22 Đề nghị - Để có kết luận chính xác hơn chúng tôi xin đề nghị tiếp tục nghiên cứu đề tài này trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Mai Thạch Hoành, Nguyễn Công Vinh (2006) “Giống và kỹ thuật thâm canh cây có củ” Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội [2]. Mai Thạch Hoành (2006) “ Chọn tạo và nhân giống cây có củ” Nxb Nông nghiệp, Hà Nội [3]. Nguyễn Thị Ngọc Huệ, “Nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng điểm bảo tồn nguồn gen khoai môn sọ trên đồng ruộng tại huyện Nho Quan, Ninh Bình”, Tuyển tập các công trình khoa học kỹ thuật nông nghiệp 2001-2002. [4]. K. Murakami, K. Takashi, K. Ogawa (2006), Morphological variation of corms in plant regenerated from calluses of Taro (Colocasia esculeuta L. Schott), SHS Acta Horticultae 725: V International Symposium on In Vitro Culture and Horticultural Breeding. SUMMARY EFFECT OF PROPAGATION METHODS ON GROWTH, DEVELOPMENT AND PROPAGATION REGENERATION CAPACITY OF TARO IN BAC KAN PROVINCE Nguyen Viet Hung, Nguyen The Hung, Nguyen The Huan College of Agriculture and Forestry- TNU Results from a study of effect of propagation methods on growth, development of taro in Bac Kan Province indicated that taro seedlings generating from roots of taro which is generated by in vitro method has yield of 6.565 tons/ha, higher yield but fewer roots than those of taro seedlings generated by in vitro methods. In vitro seedlings did not have high root yield but one seedling had an average of 10.7 roots. It means regeneration rate is more than 10 which is at least two times higher than traditional method. Keywords: Tissue Culture, taro, yield, number of roots, propagation Tel: 0912386574; Email: Hathuyduc2002@yahoo.com 22 Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 23 - 27 ẢNH HƢỞNG CỦA LIỀU LƢỢNG LÂN ĐẾN SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT CỦA GIỐNG NGÔ CHẤT LƢỢNG PROTEIN CAO (QPM) - QP4 VÀ NGÔ THƢỜNG - LVN10 TẠI THÁI NGUYÊN Trần Trung Kiên1, Bùi Văn Quang2 1 Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, 2Hội Nông dân Quảng Ninh TÓM TẮT Thí nghiệm với giống ngô QP4 (QPM) và LVN10 (ngô thƣờng) với 5 công thức bón lân: 0P 2O5 (đối chứng), 40P2O5, 80P2O5, 120P2O5, 160P2O5 (trên nền: 10 tấn phân chuồng + 120N + 80K 2O) tại Thái Nguyên trong vụ Xuân 2005, Thu Đông 2005 và Xuân 2006. Kết quả trung bình ba vụ cho thấy: So với mức lân 0P2O5 thì ở mức 160P2O5 thời gian sinh trƣởng rút ngắn 6 ngày ở giống QP4 và 7 ngày ở giống LVN10; Chiều cao cây tăng 11,8% (QP4) và 15,6% (LVN10); Chỉ số diện tích lá tăng 39,1% (QP4) và 44,7% (LVN10); Năng suất tăng 90,2% (QP4) và 102,8% (LVN10). Với hai giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10, ở mức lân 120P2O5, cả năng suất và hiệu quả kinh tế đều đạt cao nhất. Từ khoá: Hiệu quả kinh tế, năng suất, ngô chất lượng protein cao, phân lân ĐẶT VẤN ĐỀ* Từ năm 2001 - 2005, Viện Nghiên cứu Ngô phối hợp với Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên tiến hành khảo nghiệm một số giống ngô thụ phấn tự do (TPTD) có chất lƣợng protein cao (QPM) và chọn đƣợc giống ngô QP4 có triển vọng, cho năng suất và chất lƣợng protein cao, đáp ứng nhu cầu giống ngô TPTD QPM cho vùng núi khó khăn, nơi đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn tập quán dùng ngô làm lƣơng thực chính. Theo Evangelista (1999) năng suất ngô tăng lên cùng với việc tăng liều lƣợng lân, năng suất chỉ bắt đầu giảm xuống khi bón đến mức 160 kg P2O5/ha (Trần Văn Minh, 2004). Kết quả nghiên cứu bƣớc đầu của Lê Văn Hải, giống ngô lai HQ2000 đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất ở mức phân bón 160N + 120P2O5 + 160K2O (Lê Văn Hải, 2002). Tuy nhiên, việc nghiên cứu ảnh hƣởng của mức bón lân đến giống ngô TPTD QPM QP4 và giống ngô thƣờng - LVN10 ở vùng trung du và miền núi phía Bắc thì chƣa đƣợc nghiên cứu ở nƣớc ta. Xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi thực hiện đề tài "Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng lân đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống ngô chất * Tel: 0983360276; Email:trantrungkiendhnl@yahoo.com lượng protein cao (QPM) - QP4 và ngô thường - LVN10 tại Thái Nguyên". VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP Vật liệu nghiên cứu Giống ngô QP4 là giống ngô chất lƣợng protein cao có triển vọng; LVN10 là giống ngô thƣờng; Phân lân Supe (16% P2O5). Phƣơng pháp nghiên cứu Thí nghiệm trong 3 vụ: Xuân 2005, Thu Đông 2005 và Xuân 2006 tại Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, trên đất cát pha bạc màu. Thí nghiệm hai nhân tố đƣợc bố trí theo kiểu Split - plot, 3 lần nhắc lại, phân lân là nhân tố chính gồm 5 công thức: P1 - 0P2O5 (đối chứng); P2 - 40P2O5; P3 - 80P2O5; P4 120P2O5; P5 - 160P2O5 (trên nền: 10 tấn phân chuồng + 120N + 80K2O) và hai nhân tố phụ là G1 - QP4 và G2 - LVN10. Diện tích thí nghiệm ô chính là 44,1 m2 (10,5 x 4,2 m), ô phụ là 21 m2 (5 x 4,2 m); Gieo 6 hàng/ô với khoảng cách cây 70 x 25 cm. Quy trình kỹ thuật theo Viện Nghiên cứu Ngô và CIMMYT, Quy phạm khảo nghiệm phân bón 10TCN216-95. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Ảnh hƣởng của các mức lân đến thời gian sinh trƣởng Số liệu Bảng 1 cho thấy, ảnh hƣởng của lân đến thời gian sinh trƣởng qua các công thức (trung 23 Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ bình ba vụ) thể hiện rất rõ. Bón lân tăng làm rút ngắn thời gian sinh trƣởng, ở mức lân 160P2O5 cây ngô sinh trƣởng ngắn hơn 6 ngày (QP4) và 7 ngày (LVN10) so với không bón lân (0P2O5). Ảnh hƣởng của mức bón lân đến các giống ở vụ Xuân ít hơn ở vụ Thu Đông 2 ngày (QP4) và 3 ngày (LVN10); ảnh hƣởng đến giống QPM QP4 ít hơn giống ngô thƣờng - LVN10. Ảnh hưởng của lân đến các đặc điểm hình thái Trung bình của ba vụ thí nghiệm cho thấy, ảnh hƣởng của lân đến chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống rất rõ, bón tăng lân làm tăng chiều cao cây và chiều cao đóng bắp, ở mức 160P2O5 làm tăng thêm 11,8% (QP4) và 15,6% (LVN10) so với không bón lân (0P2O5). Giống QP4 có chiều cao cây và chiều cao đóng bắp thấp hơn giống LVN10, 77(01): 23 - 27 đồng thời ảnh hƣởng của lân đến chiều cao cây ít hơn so với LVN10 (Bảng 2). Ảnh hƣởng của các mức lân đến chiều cao cây ở vụ Thu Đông cao hơn ở vụ Xuân. Ảnh hƣởng của lân đến số lá của các giống không rõ. Hai giống QP4 và LVN10 có số lá tƣơng đƣơng nhau (Bảng 3). Ảnh hƣởng của lân đến chỉ số diện tích lá của các giống rất rõ, tăng dần theo mức bón lân tăng, mức 160P2O5 làm tăng thêm 39,1% ở QP4 và 44,7% ở LVN10 so với không bón lân (0P2O5). Nhƣ vậy, lân ảnh hƣởng không lớn đến số lá nhƣng làm tăng chỉ số diện tích lá góp phần tăng năng suất sau này. Ảnh hƣởng của mức bón lân đến các giống ở vụ Xuân cao hơn ở vụ Thu Đông; đồng thời ảnh hƣởng đến giống QPM - QP4 thấp hơn giống ngô thƣờng - LVN10. Bảng 1. Ảnh hƣởng của liều lƣợng lân đến thời gian sinh trƣởng của giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10 Đơn vị tính: Ngày CTPB 0P2O5 40P2O5 80P2O5 120P2O5 160P2O5 Giống Tung phấn X.05 TĐ.05 X.06 QP4 72 62 72 LVN10 76 66 75 QP4 70 59 69 LVN10 73 62 71 QP4 69 57 67 LVN10 71 60 69 QP4 68 56 66 LVN10 70 58 68 QP4 68 56 66 LVN10 70 57 68 TB 69 72 66 69 64 67 63 65 63 65 Thời gian từ gieo đến Phun râu X.05 TĐ.05 X.06 TB 76 66 76 73 80 70 80 77 73 62 72 69 76 65 74 72 71 59 69 66 74 62 72 69 70 58 68 65 72 60 70 67 70 58 68 65 72 59 70 67 Chín X.05 TĐ.05 X.06 121 116 120 127 124 125 120 114 117 125 120 122 119 112 115 124 117 120 118 110 114 123 115 119 117 109 114 122 115 118 TB 119 125 117 122 115 120 114 119 113 118 Bảng 2. Ảnh hƣởng của lân đến chiều cao cây, chiều cao đóng bắp của giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10 CTPB 0P2O5 40P2O5 80P2O5 120P2O5 160P2O5 24 Giống QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10 QP4 LVN10 X.05 183,1 199,9 189,7 209,7 195,5 219,0 200,7 223,3 203,3 226,6 Cao cây (cm) TĐ.05 X.06 186,8 180,6 194,2 195,7 192,3 186,7 210,0 205,6 197,9 191,6 219,5 214,6 207,6 198,2 226,4 221,0 210,9 201,5 230,3 224,8 TB 183,5 196,6 189,6 208,4 195,0 217,7 202,2 223,6 205,2 227,2 X.05 97,8 108,3 99,9 115,8 104,8 120,2 105,0 122,9 107,5 122,2 Cao đóng bắp (cm) TĐ.05 X.06 100,5 97,6 114,4 111,5 100,9 97,9 118,3 115,1 102,6 98,7 119,5 118,0 105,4 103,3 121,7 118,3 107,0 108,4 125,6 120,7 TB 98,6 111,4 99,6 116,4 102,0 119,2 104,6 121,0 107,6 122,8 Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Ảnh hưởng của lân đến khả năng chống chịu Trung bình ba vụ cho thấy, mức bón lân ảnh hƣởng rất rõ đến tỷ lệ đổ rễ và gãy thân, bón lân tăng làm giảm tỷ lệ đổ rễ và gãy thân, mức 120P2O5 có tỷ lệ đổ rễ thấp nhất và cao nhất là ở mức 0P2O5; ở mức 120P2O5 160P2O5 có tỷ lệ gãy thân thấp hơn ở mức 0P2O5 - 80P2O5. Ảnh hƣởng của các mức bón lân đến tỷ lệ đổ rễ và gãy thân ở vụ Thu Đông ít hơn ở vụ Xuân. Mức bón lân khác nhau cũng ảnh hƣởng đến mức độ nhiễm sâu đục thân và bệnh khô vằn, bón lân tăng làm giảm tỷ lệ nhiễm sâu bệnh. Mức bón 120P2O5 - 160P2O5 có tỷ lệ nhiễm sâu đục thân thấp hơn ở mức 0P2O5 - 80P2O5. Ở mức 120P2O5 bị nhiễm bệnh khô vằn thấp nhất trong cả hai giống. Ảnh hƣởng của các mức bón lân đến tỷ lệ nhiễm sâu đục thân và bệnh khô vằn ở vụ Thu Đông ít hơn ở vụ Xuân. Nhƣ vậy, bón lân có ảnh hƣởng đến khả năng chống chịu của giống QP4 và LVN10, bón mức lân cao 120P2O5 - 160P2O5 ngô có khả năng chống chịu tốt hơn ở mức 0P2O5 80P2O5. Giống QP4 có khả năng chống đổ rễ, gãy thân và sâu bệnh tốt hơn LVN10. Ảnh hƣởng của lân đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất Mức lân ảnh hƣởng lớn đến chiều dài bắp, mức lân tăng thì chiều dài bắp cũng tăng, ở mức 160P2O5 chiều dài bắp tăng hơn 23,7% (QP4) và 31,1% (LVN10); đồng thời đƣờng 77(01): 23 - 27 kính bắp cũng tăng 26,3% (QP4) và 28,2% (LVN10) so với không bón lân (0P2O5). Ảnh hƣởng của lân đến số hàng hạt/bắp không lớn, biến động từ 13,6 (0P 2O5 ) 14,4 hàng (120P 2 O5) ở QP4 và từ 13,2 (0P 2O5 ) - 14,1 hàng (120P 2 O5 ) ở LVN10. Giống QP4 có số hàng hạt/bắp trung bình cao hơn giống LVN10 từ 3 - 4 hàng. Lân ảnh hƣởng lớn đến số hạt/hàng và khối lƣợng 1000 hạt. Mức lân tăng thì số hạt/hàng cũng tăng, ở mức 160P 2O5 tăng thêm 26,6% (QP4) và 30,7% (LVN10); cùng theo đó khối lƣợng 1000 hạt cũng tăng thêm 16,7% (QP4) và 14,3% (LVN10) so với không bón lân (0P 2O5). Năng suất lý thuyết (NSLT) trung bình ba vụ của các giống cũng tăng khi các mức lân tăng từ 0P2O5 - 160P2O5, biến động từ 52,6 - 84,2 tạ/ha (QP4) và từ 54,8 - 91,1 tạ/ha (LVN10). Nhƣ vậy, ở mức 160P2O5 năng suất lý thuyết tăng thêm 60,1% (QP4) và 66,2% (LVN10) so với không bón lân (0P2O5). Ảnh hƣởng của lân đến năng suất thực thu (NSTT) trung bình ba vụ đƣợc thể hiện rõ nhất, tăng theo các mức lân tăng. Năng suất thực thu biến động từ 28,8 (0P2O5) - 54,5 tạ/ha (160P2O5) ở QP4 và từ 29,8 (0P2O5) - 60,3 tạ/ha (160P2O5) ở LVN10, Ở mức 160P2O5, năng suất thực thu tăng hơn 89,2% ở QP4 và 102,4% ở LVN10 so với không bón lân (0P2O5). Ảnh hƣởng của các mức bón lân đến năng suất thực thu ở vụ Thu Đông ít hơn ở vụ Xuân (Bảng 4b). Bảng 4a. Ảnh hƣởng của các mức lân đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suấtcủa giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10 CT PB Dài bắp (cm) Giống QP4 0P2O5 LVN10 QP4 40P2O5 LVN10 QP4 80P2O5 LVN10 QP4 120P2O5 LVN10 QP4 160P2O5 LVN10 X.05 13,0 13,6 14,3 14,9 15,1 16,4 15,8 17,0 16,0 17,3 TĐ.05 13,4 13,9 14,3 15,2 15,0 16,4 15,7 17,5 16,0 17,9 X.06 12,8 13,0 14,0 14,5 14,5 16,5 15,9 17,8 16,5 18,0 Đƣờng kính bắp (cm) TB X.05 TĐ.05 X.06 3,8 3,7 13,1 3,9 3,8 3,8 13,5 4,0 4,3 4,1 14,2 4,1 4,3 4,3 14,9 4,3 4,6 4,4 14,9 4,3 4,7 4,7 16,4 4,5 4,9 4,7 15,8 4,5 5,1 4,9 17,4 4,8 4,9 4,8 16,2 4,6 5,2 5,0 17,7 4,9 TB 3,8 3,9 4,2 4,3 4,4 4,6 4,7 4,9 4,8 5,0 HH/ bắp (hàng) TB 13,6 13,2 14,0 13,7 14,2 13,9 14,4 14,1 14,4 14,1 Hạt/hàng (hạt) X.05 TĐ.05 X.06 26,6 26,5 25,7 28,0 27,6 26,6 29,7 30,5 28,7 30,2 31,6 29,2 31,1 33,8 30,0 33,0 34,9 32,5 31,8 35,0 31,9 34,5 36,8 34,6 31,9 35,4 32,5 34,7 37,3 35,3 TB 26,3 27,4 29,6 30,3 31,6 33,5 32,9 35,3 33,3 35,8 25 Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 23 - 27 Bảng 4b. Ảnh hƣởng của các mức lân đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10 CT PB Giống QP4 0P2O5 LVN10 QP4 40P2O5 LVN10 QP4 80P2O5 LVN10 QP4 120P2O5 LVN10 QP4 160P2O5 LVN10 X.05 260,1 280,7 287,7 299,5 296,3 310,0 307,1 321,6 308,7 325,0 P1000hạt (g) TĐ.05 X.06 279,0 265,3 290,7 279,5 300,5 284,0 305,0 298,7 311,3 294,0 316,7 306,7 317,1 309,3 325,0 317,0 318,6 311,1 328,3 319,4 NSLT (tạ/ha) TB X.05 TĐ.05 X.06 268,1 49,0 58,5 50,3 283,6 52,4 59,3 52,7 290,7 65,2 70,8 64,0 301,1 68,7 71,0 68,9 300,5 70,5 80,0 72,6 311,1 78,3 84,1 79,4 311,2 77,5 87,7 80,7 321,2 85,4 92,3 86,8 312,8 79,9 89,5 83,3 324,2 89,2 93,9 90,1 TB 52,6 54,8 66,7 69,5 74,4 80,6 82,0 88,2 84,2 91,1 NSTT (tạ/ha) X.05 TĐ.05 X.06 25,3 32,3 28,9 27,6 31,2 30,5 35,7 42,7 39,0 39,0 43,8 42,1 44,5 50,3 47,0 48,3 53,7 51,9 50,5 55,5 54,3 56,7 61,7 59,7 51,7 56,8 55,0 57,9 62,1 60,9 TB 28,8 29,8 39,1 41,6 47,3 51,3 53,4 59,4 54,5 60,3 Bảng 5. Ảnh hƣởng của mức 160P2O5 so với mức 0P2O5 ở một số chỉ tiêu chính đối với hai giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10 Chỉ tiêu Thời gian sinh trƣởng Chiều cao cây Chỉ số diện tích lá Năng suất thực thu Đơn vị tính X.05 Ngày -4 % + 11,0 % + 45,8 % + 104,3 QP4 TĐ.05 X.06 -7 -6 + 12,9 + 11,6 + 37,0 + 34,6 + 75,9 + 90,3 Qua xử lý thống kê ở ba vụ cho thấy, tất cả các công thức có bón lân (40P2O5 - 160P2O5) đều có năng suất thực thu cao hơn công thức không bón lân (0P2O5) ở mức tin cậy 99%; Công thức 120P2O5 và 160P2O5 có năng suất thực thu thực thu tƣơng đƣơng nhau ở mức tin cậy 95%. Giống QP4 đạt NSTT trung bình qua các công thức bón lân thấp hơn giống LVN10 ở mức tin cậy 95%. Trung bình ba vụ thí nghiệm cho thấy, ảnh hƣởng của các liều lƣợng lân đến một số chỉ tiêu chính của giống QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10 rất rõ. Ở công thức 160P2O5, kết quả các chỉ tiêu đạt đƣợc tăng thêm nhiều so với đối chứng không bón lân (0P2O5) (Bảng 5). Ảnh hƣởng của các mức lân đến các chỉ tiêu chính của giống QPM - QP4 thấp hơn so với giống ngô thƣờng - LVN10. Hiệu quả kinh tế qua các công thức bón lân Ở mức không bón lân (0P 2O5) do năng suất thực thu trung bình ba vụ của hai giống QP4 và LVN10 đạt rất thấp nên hiệu quả kinh tế đạt thấp nhất. Với mức bón 120P 2O5 ở cả hai giống QP4 và LVN10 đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Tóm lại, ảnh hƣởng của lân đến các giống ngô rất rõ rệt, năng suất ngô tăng lên cùng với việc 26 LVN10 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB -5 -9 -7 -6 -7 + 11,8 + 13,4 + 18,6 + 14,9 + 15,6 + 39,1 + 54,2 + 39,3 40,7 + 44,7 + 90,2 + 109,8 + 99,0 + 99,7+ 102,8 tăng liều lƣợng lân, kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Evangelista (1999). KẾT LUẬN Kết quả trung bình ba vụ thí nghiệm cho thấy: So với mức lân 0P2O5 thì ở mức 160P2O5 thời gian sinh trƣởng rút ngắn 6 ngày ở giống QP4 và 7 ngày ở giống LVN10; Chiều cao cây tăng 11,8% (QP4) và 15,6% (LVN10); Chỉ số diện tích lá tăng 39,1% (QP4) và 44,7% (LVN10); Năng suất tăng 90,2% (QP4) và 102,8% (LVN10). Với hai giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10, ở mức lân 120P2O5 cả năng suất và hiệu quả kinh tế đều đạt cao nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Afendulop K.P. (1972), Ảnh hưởng của phân bón đến quá trình phát triển các cơ quan của cây ngô (tài liệu dịch), Một số kết quả nghiên cứu của cây ngô, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. [2]. Chudry G.A., Ghulam - Habib, Muh amad Sadg, Khan. M.A., Eff of Nitrogen, Phosphorus and plant population on gain afield of dryland maize. [3]. CIMMYT (2001), The Quality Protein Maize Revolution (Nguyễn Tiến Trƣờng, Lê Quý Kha dịch). Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ [4]. Cook. G.W. (1975), Fertilizing for maximum yield. [5]. De. Geus (1973), Fertilizer guide for tropic and sutropic. [6]. G. F. Sprague, J. W. Dudley (1988), Corn and corn improvement. [7]. Lê Văn Hải (2002), Nghiên cứu phản ứng của giống ngô lai chất lượng protein cao HQ2000 với phân bón trên đất bạc màu huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang, Luân văn Thạc sỹ khoa học Nông nghiệp. 77(01): 23 - 27 [8]. Trần Trung Kiên, Phan Xuân Hào (2007), Ảnh hƣởng của liều lƣợng đạm đến sinh trƣởng, phát triển và năng suất của giống ngô chất lƣợng protein cao (QPM) - QP4 và ngô thƣờng - LVN10 tại Thái Nguyên, Tạp chí Khoa học và Công nghệ nông nghiệp Việt Nam, Số 4(5)/2007. 9, Trần Văn Minh (2004), Cây ngô - nghiên cứu và sản xuất, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. SUMMARY THE EFFECT OF PHOSPHORUS DOSAGES ON THE GROWTH, DEVELOPMENT AND GRAIN YEILD OF QUALITY PROTEIN MAIZE VARIETY (QPM) - QP4 AND NORMAL MAIZE VARIETY - LVN10 IN THAI NGUYEN Tran Trung Kien1*, Bui Van Quang2 1 2 College of Agriculture and Forestry - TNU, Quang Ninh Province Farmers Association Experiment on 5 levels of phosphorus, as the main plots, combined with 2 varieties, as subplots, was undertaken in Thai Nguyen in the 2005 spring, in the 2005 winter - autumn and in the 2006 spring crop of corn. This experiment was arranged as Split - plot design having 3 replicates. Five main plots are P1 - 0P2O5; P2 - 40P2O5; P3 - 80P2O5; P4 - 120P2O5; P5 - 160P2O5 and two subplots are G1 - QP4 (QPM); G2 - LVN10 (normal maize). The research results (average of three crop) showed that: The mutunity durations of corn varieties at the level of 160P2O5 shorter than the control 6 days for QP4 and 7 days for LVN10; Plant 's height increased 11,8% for QP4 and by 15,6% for LVN10; Leaf area index increased 39,1% for QP4 and by 44,7% for LVN10; Grain yield increased 90,2% for QP4 and by 102,8% for LVN10. At the level of 120P 2O5, QP4 (QPM) and LVN10 (normal maize) reached the highest yield and economic effectiveness. Key words: Economic effectiveness, grain yield, quality protein maize, phosphorus * Tel: 0983360276; Email: trantrungkiendhnl@yahoo.com 27 Trần Trung Kiên và cs 28 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 23 - 27 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 29 - 33 NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA PHÂN BÓN HỮU CƠ VI SINH SẢN XUẤT TẠI CHỖ ĐẾN SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN CỦA GIỐNG LÖA CTA 88 TẠI TỈNH LÀO CAI Đặng Văn Minh1*, Nguyễn Văn Tâm1, Lê Thị Thu2 1 Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên; Trạm Khuyến nông huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai 2 TÓM TẮT Nghiên cứu sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh chế biến tại chỗ đƣợc tiến hành tại tỉnh Lào Cai. Nghiên cứu bao gồm hai thí nghiệm. Thí nghiệm 1, sử dụng chế phẩm sinh học EMUNIV để xử lý rơm rạ, chất độn chuồng thành phân hữu cơ. Thí nghiệm 2, tác giả sử dụng phân hữu cơ vi sinh đƣợc chế biến từ thí nghiệm 1 để nghiên cứu sự ảnh hƣởng của chúng tới sinh trƣởng, phát triển của giống lúa CTA 88. Thí nghiệm gồm 7 công thức, sử dụng hai loại phân đƣợc chế biến từ rơm rạ và chất độn chuồng với các mức bón 3 tấn, 6 tấn, 9 tấn trên ha với mức nền 60N + 60P 2O5 + 50 K20. Hầu hết các công thức đƣợc bón thêm phân hữu cơ đều có năng suất cao hơn công thức đối chứng, đặc biệt là các công thức bón ở mức 9 tấn/ha. Từ khóa: Phân hữu cơ, lúa, vụ mùa, Coc San ĐẶT VẤN ĐỀ Thực trạng môi trƣờng nông thôn Việt Nam hiện nay đang có nhiều vấn đề tồn tại. Một trong những tồn tại đó là sự phát sinh rác thải sinh hoạt đặc biệt là các chất thải từ phế phụ phẩm nông nghiệp. Đa số ngƣời nông dân thƣờng nghĩ rằng phế phụ phẩm nông nghiệp là rác thải và là thứ bỏ đi. Họ tìm cách loại bỏ nó hoặc tìm cách đốt bỏ các loại phế phụ phẩm sau khi thu hoạch nông nghiệp. Điều này sẽ gây ô nhiễm môi trƣờng và lãng phí nguồn nguyên liệu phân bón vì đa số phế phụ phẩm nông nghiệp đều là các chất hữu cơ nên dễ dàng phân huỷ nếu có biện pháp xử lý hợp lý. Tuy nhiên việc sử dụng phân bón hữu cơ cho lúa đã trở thành nhu cầu không thể thiếu đƣợc với nông dân vùng xuôi, nhƣng vẫn chƣa đƣợc thực sự coi trọng ở nhiều địa phƣơng do nhận thức của ngƣời dân chƣa đầy đủ và thiếu nguồn phân bón hữu cơ (Nguyễn Văn Bộ, 2003). Để giải quyết các khó khăn trên, hiện nay có nhiều phƣơng pháp sử dụng các chế phẩm vi sinh vật để xử lý rác và phụ phẩm nông nghiệp làm phân bón và cải tạo đất (Jones P.T.C and Mollison J.L,.1984; Lê Văn Nhƣợng, 2001; Phạm Văn Toản, 2004; Nguyễn Mỹ Hoa; 2008). Trên địa bàn xã Cốc San, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, mặc dù một khối lƣợng lớn phế phụ Tel:0912334310; Email:dangminh08@gmail.com phẩm nông nghiệp (5,36 tấn/hộ/năm) (Số liệu điều tra năm 2009) đang bị lãng phí nhƣng các hộ nông dân lại bỏ ra một lƣợng tiền lớn để mua phân hóa học (0,147 tấn/hộ/năm) (Số liệu điều tra 2009) phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Điều này không chỉ làm tăng chi phí trong sản xuất nông nghiệp và còn ảnh hƣởng nghiêm trong đến hệ sinh thái. Vì vậy việc xử lý phế phụ phẩm nông nghiệp làm phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp không chỉ tận dụng đƣợc nguồn rác thải mà còn đem lại nhiều lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trƣờng. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM Nghiên cứu đƣợc tiến hành trong năm 2009 và 2010 tại xã Cốc San, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Bao gồm 2 nội dung: Nội dung 1: Xử lý một số phế phẩm nông nghiệp thành phân hữu cơ bằng chế phẩm sinh học EMUNIV - Công thức thí nghiệm gồm: + Công thức 1: 800kg rơm + 100kg phân chuồng + 1 gói EMUNIV 500g. + Công thức 2: 800kg chất độn chuồng + 1 gói EMUNIV 500g. - Quy trình xử lý: Nguyên liệu, phân chuồng đƣợc chia làm 6 phần. Một gói chế phẩm EMUNIV 500g đƣợc hòa tan vào 20 lít nƣớc. Rải đều một lớp nguyên liệu rồi đến một lớp phân chuồng và 29 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ tƣới một lớp chế phẩm EMUNIV, cứ nhƣ vậy cho đến khi hết nguyên liệu. Sau khi ủ xong, ta phải che đậy đống ủ bằng bạt, bao tải hoặc nilon. Cứ khoảng 10 - 15 ngày tiến hành đảo trộn một lần. - Chất lƣợng phân bón đƣợc phân tích tại Trung tâm tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng tỉnh Vĩnh Phúc Nội dung 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của phân hữu cơ được sản xuất từ rơm, chất độn chuồng đến sinh trưởng, phát triển của giống lúa CTA 88 - Thời gian, địa điểm: Vụ mùa năm 2010 tại xã Cốc San, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. - Vật liệu nghiên cứu: Giống lúa CTA 88 nhập nội từ Thái Lan - Công thức thí nghiệm: gồm 7 công thức + Công thức 1: 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 3 tấn phân hữu cơ từ rơm rạ + Công thức 2: 60N + 60 P2O5 + 50 K2O + 6 tấn phân hữu cơ từ rơm rạ + Công thức 3: 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 9 tấn phân hữu cơ từ rơm rạ + Công thức 4 : 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 3 tấn phân hữu cơ từ chất độn chuồng + Công thức 5: 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 6 tấn phân hữu cơ từ chất độn chuồng + Công thức 6: 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 9 tấn phân hữu cơ từ chất độn chuồng 77(01): 29 - 33 + Công thức 7 (đối chứng): 60N +60 P2O5 + 50 K2O - Phƣơng pháp bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm đƣợc bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh với ba lần nhắc lại (diện tích mỗi ô 2,5 m x 3m) - Các chỉ tiêu theo dõi đƣợc tiến hành bằng phƣơng pháp nghiên cứu của Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI). KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Thành phần các chất dinh dƣỡng trong sản phẩm phân bón đƣợc chế biến từ phế phụ phẩm nông nghiệp. Chất lƣợng sản phẩm phân bón chế biến từ chất độn chuồng và rơm đƣợc xử lý bằng EMUNIV đều có chất lƣợng tốt, pH của hai loại phân đều thuộc khoảng trung tính. Hàm lƣợng N tổng số và P2O5 tổng số của hai loại sản phẩm là ngang nhau. Tuy nhiên, hàm lƣợng K2O tổng số của sản phẩm đƣợc chế biến từ rơm rất cao, chiếm 3,10% (Bảng 1). Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến chiều cao cây của giống lúa CTA 88 Chiều cao cây của cây lúa chính là kết quả của sự tăng trƣởng thân lá. Chiều cao cây phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ nhiệt độ, ánh sáng, phân bón…. Bảng 1. Chất lƣợng của các sản phẩm phân bón hữu cơ Tên mẫu Rơm + EMUNIV Chất độn chuồng + EMUNIV pHKCl Mùn (%) 7,05 7,32 22,11 25,41 Các chỉ tiêu P2O5 TS N TS (%) (%) 1,56 0,784 1,45 0,982 P 2O 5 (mg/100g) 26,11 32,10 K2O TS (%) 3,10 2,02 Bảng 2: Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến chiều cao cây của giống lúa CTA 88 Đơn vị: cm Tuần sau đẻ nhánh Công thức 2 4 6 8 CT 1 51.90 74.86 94.09 109.66 CT 2 49.60 70.00 93.30 108.16 CT 3 51.86 70.43 91.96 111.66 CT 4 53.26 76.90 98.83 107.80 CT 5 49.60 74.60 96.30 110.00 CT 6 52.13 77.36 98.03 107.66 CT đ/c 53.06 75.56 96.66 112.60 CV % 4.0 4.7 4.2 4.1 LSD0,05 3.66 6.15 7.06 7.96 30 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 cho thấy: Chiều cao cây tăng dần qua các tuần theo dõi. Tuy nhiên chiều cao cây của các công thức thí nghiệm khác nhau không nhiều. Điều đó cho thấy các công thức phân bón khác nhau không ảnh hƣởng nhiều đến chiều cao cây ở các giai đoạn sinh trƣởng phát triển. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến số nhánh đẻ của giống lúa CTA 88 Số nhánh đẻ là một chỉ tiêu quan trọng có liên quan chặt chẽ đến quá trình hình thành số bông hữu hiệu và năng suất thu hoạch. Kết quả nghiên cứu (Bảng 3) cho thấy: - Giai đoạn từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 4 sau đẻ nhánh, giai đoạn cây lúa đã phát triển tƣơng đối hoàn chỉnh, cùng với thời tiết rất thuận lợi cho đẻ nhánh, đặc biệt là chế độ nƣớc tƣới phù hợp nên tốc độ đẻ nhánh đạt cao nhất. 77(01): 29 - 33 - Từ tuần thứ 4 đến tuần thứ 8 sau đẻ nhánh, mặc dù số nhánh/khóm vẫn tiếp tục tăng nhƣng với tốc độ thấp hơn, và số nhánh lúa gần nhƣ đạt tối đa ở tuần thứ 8 sau đẻ nhánh. Ở tuần này, số nhánh ở các công thức dao động từ 12.25 nhánh/khóm đến 17.66 nhánh/khóm. Các công thức 2, 3, 5, 6 số nhánh/khóm có sự sai khác với công thức đối chúng ở mức tin cậy 95 %. Công thức 1, 4 số nhánh/khóm không có sự sai khác so với công thức đối chúng.. Điều này cho thấy, các công thức khác nhau có ảnh hƣởng lớn đến số nhánh. Số nhánh/khóm thƣờng tăng theo lƣợng phân bón tăng. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến khả năng tích luỹ vật chất khô của giống lúa CTA 88 Khả năng tích luỹ vật chất khô là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hƣởng tới năng suất. Khả năng tích luỹ chất khô của cây lúa càng cao thì tiềm năng cho năng suất càng lớn. Bảng 3. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến số nhánh đẻ của giống lúa CTA 88 Đơn vị: nhánh/khóm Tuần sau đẻ nhánh Công thức 2 4 6 8 CT 1 5.85 10.60 12.50 14.63 CT 2 7.00 11.80 13.66 15.60 CT 3 6.90 11.16 16.06 17.33 CT 4 6.16 11.06 12.91 12.25 CT 5 7.58 12.20 14.58 16.76 CT 6 7.41 11.00 15.43 17.66 CT đ/c 7.58 10.20 12.41 12.73 CV % 9.7 12.3 14.0 14.3 LSD0,05 1.17 2.39 3.42 3.83 Bảng 4. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến khả năng tích luỹ vật chất khô của giống lúa CTA 88 Đơn vị: g/khóm Công thức CT 1 CT 2 CT 3 CT 4 CT 5 CT 6 CT đ/c CV % LSD0,05 Đẻ nhánh hữu hiệu 6.06 6.56 6.66 6.06 6.23 6.36 5.76 3.8 0.41 Giai đoạn sinh trƣởng Trỗ bông 15.06 18.83 19.20 17.00 17.63 18.43 16.00 2.3 0.69 Chín sáp 21.00 25.86 26.73 23.66 24.20 24.80 22.06 2.6 1.07 31 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Kết quả thể hiện ở bảng 4 cho thấy: - Giai đoạn đẻ nhánh hữu hiệu: Khả năng tích luỹ vật chất khô dao động từ 5,76 – 6,66 g/khóm. Trong đó các công thức 2, 3, 5, 6 cao hơn công thức đối chứng, sai khác có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%, các công thức còn lại đều không sai khác so với đối chứng. - Thời kỳ trổ bông: Qua theo dõi ta thấy khả năng tích luỹ vật chất khô của giống lúa CTA88 trong các công thức thí nghiệm dao động từ 15.06 - 19.20 g/khóm. Trong đó công thức 3 có kết quả cao nhất đạt 19,20 g/khóm - Thời kỳ chín sáp: Giai đoạn này lƣợng vật chất khô tích lũy đƣợc trong cây đạt khá cao (từ 21.00 - 26.73 g/khóm), đạt cao nhất ở công thức 3. Sự ảnh hƣởng của các mức phân bón trong giai đoạn này thể hiện rõ nhất khi bón phân hữu cơ chế biến từ rơm ra. Khi tăng mức phân bón từ 3 tấn/ha lên 9 tấn/ha đã làm tăng mạnh khối lƣợng chất khô. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống lúa CTA 88 Năng suất lúa là yếu tố quan trọng nhất phản ánh kết quả sinh trƣởng, phát triển của cây lúa. Năng suất lúa đƣợc tạo thành bởi các yếu tố nhƣ: Số bông/m2, số hạt chắc/bông và khối lƣợng 1000 hạt. - Số bông/m2: Trong các yếu tố cấu thành năng suất lúa thì số bông là yếu tố có tính chất quyết định nhất và sớm nhất. Trong thí nghiệm ta thấy số bông/m2 là yếu tố có biến 77(01): 29 - 33 động lớn và chịu ảnh hƣởng rất rõ của các công thức bón phân, giữa các công thức số bông/m2 dao động từ 620.50 đến 720.82 bông/m2. - Số hạt chắc/bông: Số hạt chắc/bông trong các công thức thí nghiệm đạt từ 67.77 đến 73.33 hạt chắc/bông, trong đó đạt cao nhất ở công thức 6. Điều đó cho thấy công thức 6 đạt hiệu quả cao nhất trong việc quyết định số hạt chắc trên bông. - Trọng lƣợng 1000 hạt: Trọng lƣợng 1000 hạt là yếu tố phụ thuộc rất nhiều vào bản chất di truyền giống. Tuy nhiên trong thực tế, trọng lƣợng 1000 hạt sẽ đạt gần giá trị tuyệt đối của giống khi đƣợc thâm canh hợp lý. - Năng suất lý thuyết: Năng suất lý thuyết thể hiện tiềm năng cho năng suất của giống. Trong các công thức thí nghiệm, năng suất đạt từ 101.76 đến 130,40 tạ/ha. Năng suất lý thuyết đạt cao nhất ở công thức 6. - Năng suất thực thu: Năng suất thực thu là yếu tố đƣợc quan tâm nhất. Năng suất thực thu trong các công thức đạt khá cao từ 56.33 đến 67.03 tạ/ha. Tất cả các công thức thí nghiệm đều có năng suất cao hơn công thức đối chứng, sự sai khác chắc chắn ở mức tin cậy 95%. Ảnh hƣởng của phân bón đến năng suất thực thu cho thấy, năng suất thực thu tăng khi bón tăng lƣợng phân hữu cơ và năng suất thực thu đạt cao nhất khi bón với lƣợng 9 tấn/ha. Bảng 5. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống lúa CTA 88 Công thức CT 1 CT 2 CT 3 CT 4 CT 5 CT 6 CT đ/c CV % LSD0,05 32 Các chỉ tiêu theo dõi 2 Số bông/m 670,34 710.64 716,18 668.30 665.13 720.82 620.50 - Tổng hạt/bông Hạt hắc/bông 80,30 70,23 86,74 68,29 87.57 70.64 85.14 71.33 83.73 72.67 87.66 73.33 79.80 67.77 - P1000 hạt (g) 24,87 24.82 25.03 24.93 24.93 24.67 24.20 - NSLT (tạ/ha) NSTT (tạ/ha) 117.08 61.63 120.45 64.23 126.63 67.03 118.84 61.53 120.50 63.5 130,40 65.00 101.76 56.33 4.5 4.99 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ KẾT LUẬN 77(01): 29 - 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO - Các phế phụ phẩm nông nghiệp rất đa dạng là nguồn nguyên liệu tốt để xử lý thành phân hữu cơ. Chất lƣợng phân hữu cơ xử lý từ rơm rạ và chất độn chuồng đều có chất lƣợng tốt. Trong đó tỷ lệ K2O tổng số của phân hữu cơ chế biến từ rơm cao hơn (3,10%) phân hữu cơ chế biến từ chất độn chuồng (1,02%) . Tỷ lệ các chất dinh dƣỡng khác trong hai loại phân là tƣơng đƣơng nhau. - Phân hữu cơ đƣợc chế biến từ rơm rạ và chất độn chuồng đếu có ảnh hƣởng tích cực đến số nhánh/khóm, đến khả năng tích lũy vật chất khô, các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất thực thu. Với mức nền là 60N + 60 P2O5 + 50 K2O thì năng suất thực thu của giống lúa CTA 88 càng tăng khi bón tăng lƣợng phân hữu cơ. Bón phân hữu cơ với mức 9 tấn/ha sẽ cho năng suất cao nhất. [1]. Nguyễn Văn Bộ (2003), Bón phân cân đối cho cây trồng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp (tr 24 - 37) [2]. Dilly.O and blume.H.P (1998), Indicators to assess sustainable land use with reference to soil microbiology, Advances in Geoecology 31, Inter. Soci of Soil Sci (ISSS), 23-48 [3]. Nguyễn Mỹ Hoa, (2008) “Đánh giá chất lƣợng phân hữu cơ vi sinh – vi sinh đƣợc ủ từ nguồn phế thải thực vật nông thôn” Tạp chí Khoa học Đất, Số 30/2008 [4]. Lê Văn Nhƣợng (2001), Công nghệ xử lý một số phế thải nông sản chủ yếu (lá mía, vỏ thải cà phê, rác thải nông nghiệp) thành phân bón hữu cơ sinh học. Đề tài KHCN 02-04B (2001) [5]. Phạm Văn Toản (2004) Nghiên cứu công nghệ sản xuất phân bón vi sinh vật đa chủng, phân bón chức năng phục vụ chăm sóc cây trồng cho một số vùng sinh thái. Đề tài Khoa học cấp Nhà nƣớc KC.04.04 (2001-2004) SUMMARY STUDY THE OFFECTS OF ORGANIC FERTILIZERS PROCESSED IN LOCAL AREA ON THE GROWTH AND DEVELOPMENT OF THE RICE VARIETY CTA88 IN LAO CAI PROVINCE Dang Van Minh1, Nguyen Van Tam1, Le Thi Thu2 1 College of Agriculture and Forestry- TNU Extension station in Bat Xat, Lao Cai province 2 The study was conducted in Coc San commune, Bat Xat district, Lao Cai province. The study consists of two experiments. In experiment 1, the authors used the biologic production EMUNIV to process straws and breeding wastes into organic fertilizers. These organic fertilizers were analyzed quality and the results showed that their whole quality is very good. In experiment 2, the authors used the organic fertilizers proceesed in experiment 1 to study their effects on the growth and development of the rice variety CTA 88. Experiment 2 consists 7 treatments ( including one control treatment), uses two kinds of organic fertilizers which were processed from straws and breeding wastes on the levels of 3 tons, 6 tons, 9 tons/ha and 60N + 60P 2O5 + 50 K20. Allmost all treatments which were added organic fertilizers increased rice yields, especially the treatments with 9 tons/ha. Keywords: Organic fertilize, rice, summer crop, Coc San Tel:0912334310; Email: dangminh08@gmail.com 33 Đặng Văn Minh và cs 34 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 29 - 33 Nguyễn Viết Hƣng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 35 - 38 ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ TRỒNG ĐẾN NĂNG SUẤT GIỐNG LẠC L23 VỤ XUÂN 2010 TRÊN ĐẤT MỘT VỤ TẠI HỮU LŨNG - LẠNG SƠN Nguyễn Viết Hƣng* Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Cây lạc có vai trò quan trọng trong công thức luân canh với lúa, góp phần cải tạo đất, cho hiệu quả kinh tế cao và tăng thu nhập trên đơn vị diện tích. Giống lạc L23 đƣợc trồng trong thí nghiệm vụ xuân 2010 tại Hữu Lũng - Lạng Sơn với 05 mật độ khác nhau từ 25 - 50 cây/m2. Trong đó, mật độ trồng lạc L23 càng thƣa cho kết quả về thời gian sinh trƣởng càng dài và khả năng phân cành càng lớn. Mật độ gieo trồng giống lạc L23 thích hợp nhất trên đất một vụ lúa là 33 cây/m2 (30 x 10 cm). Từ khóa: Cây lạc, mật độ, năng suất, đất một vụ ĐẶT VẤN ĐỀ Lạc (Arachis hypogaea line) là cây công nghiệp ngắn ngày, cây thực phẩm, cây lấy dầu có giá trị kinh tế cao, có khả năng cải tạo đất tốt. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã và đang tập trung nghiên cứu, khảo nghiệm tìm ra những bộ giống lạc thích hợp nhất cho từng vùng lãnh thổ. Sản xuất lạc Việt Nam đang tiếp cận dần với tiến bộ khoa học thế giới, góp phần đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất và sản lƣợng, dần đáp ứng đƣợc nhu cầu cho tiêu dùng và công nghiệp chế biến trong nƣớc và xuất khẩu. Tuy nhiên hiện nay trong quá trình canh tác lạc, ngƣời dân vẫn sử dụng các giống cũ và canh tác theo phƣơng thức truyền thống. Năng suất cây lạc rất thấp, hiệu quả kinh tế thấp. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu tìm ra mật độ trồng thích hợp nhằm nâng cao năng suất lạc trên đất một vụ lúa của huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn; trên cơ sở đó, góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất lạc trên đất một vụ lúa của huyện. PHƢƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM - Thí nghiệm đƣợc tiến hành trên đất một vụ với giống lạc L23 và đƣợc bố trí theo phƣơng pháp khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh gồm 05 công thức, 03 lần nhắc lại. Các công thức thí nghiệm bao gồm: (1) Mật độ 50 cây/m2 (20 x 10cm). (2) Mật độ 40 cây/m2 (25 x 10cm). (3) Mật độ 33 cây/m2 (30 x 10cm). (4) Mật độ 25 Tel: 0912386574; Email: Hathuyduc2002@yahoo.com cây/m2 (40 x 10cm). (5) Mật độ 29 cây/m2 (35 x 10cm) (Đ/c). Mật độ đối chứng là mật độ hiện nay đƣợc ngƣời dân địa phƣơng trồng phổ biến. - Diện tích ô thí nghiệm là 8 m2 (1,6m x 5m) (không kể rãnh). - Số ô thí nghiệm: 3 x 5 = 15 (ô). KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến các giai đoạn sinh trƣởng phát triển và khả năng phân cành của giống lạc L23 vụ Xuân 2010 Mật độ trồng có ảnh hƣởng đến thời gian sinh trƣởng của lạc L23. Tổng thời gian sinh trƣởng ở các công thức có chiều hƣớng tăng dần theo khoảng cách trồng ở các công thức (từ 110 đến 115 ngày). Nhƣ vậy có nghĩa là mật độ càng thƣa thì thời gian sinh trƣởng càng dài. Mật độ cũng có ảnh hƣởng đến khả năng phân cành của cây. Khả năng phân cành càng lớn khi mật độ càng thƣa. Cụ thể qua số liệu bảng 1 ta thấy số cành cấp 1 có sự khác nhau không chắc chắn giữa các công thức ở độ tin cậy 95%. Riêng chỉ có công thức 5 có số cành cao hơn (5,2 cành/cây). Nhƣ vậy số cành cấp 1 không chịu ảnh hƣởng nhiều bởi mật độ. Số cành cấp 2 có sự khác biệt giữa các công thức tƣơng đối lớn. So với đối chứng, công thức 1 có số cành cấp 2 ít hơn 1,2 cành/cây, công thức 2 ít hơn 0,9 cành/cây, công thức 3 ít hơn 0,2 cành/cây. Riêng có công thức 4 nhiều hơn đối chứng 0,1 cành/cây. Có nghĩa là số cành cấp 2 ở công thức 1, 2 thấp hơn đối chứng ở độ tin cậy 95%. 35 Nguyễn Viết Hƣng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến mức độ nhiễm bệnh ở giống lạc L23 vụ Xuân 2010 Về cơ bản, L23 là một giống kháng bệnh. Trong vụ Xuân 2010, giống lạc L23 ở các công thức mật độ khác nhau chỉ nhiễm một số bệnh thông thƣờng trên cây lạc nhƣ gỉ sắt, đốm đen, đốm nâu hay héo xanh vi khuẩn ở mức độ nhẹ và rất nhẹ. Mức độ nhiễm bệnh ở các công thức đều tƣơng đƣơng nhau và tƣơng đƣơng đối chứng. Bệnh gỉ sắt, đốm đen đều ở cấp bệnh 3 (nhẹ), bệnh héo xanh vi khuẩn ở điểm 1 (nhẹ). Riêng bệnh đốm nâu, ở các công thức 3, 4, 5 cũng ở cấp bệnh 3 (nhẹ), nhƣng ở công thức 1, 2 thì mức độ nhiễm bệnh cao hơn (cấp 5). Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất - Ảnh hưởng của mật độ đến tổng số quả/cây: So với công thức đối chứng, tổng số quả/cây ở các công thức 1, 2 và 3 thấp hơn từ 1,1 đến 6,7 quả/cây là chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Tổng số quả ở công thức 4 không sai khác so với đối chứng. Nhƣ vậy tổng số quả/cây ở công thức 4 và công thức đối chứng là tƣơng đƣơng nhau và cao hơn các công thức còn lại chắc chắn ở độ tin cậy 95%. - Ảnh hưởng của mật độ đến khối lượng 100 hạt: Ở công thức 1 và 2 có khối lƣợng 100 hạt thấp hơn đối chứng từ 5,2 đến 5,7 g chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Các công thức 3 và 4 có khối lƣợng 100 tƣơng đƣơng so với đối chứng. - Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất lý thuyết: Công thức 1 và công thức 4 cho kết quả năng suất lý thuyết thấp hơn đối chứng 5,4 - 7,3 tạ/ha và thấp hơn chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Công thức 3 có năng suất lý thuyết cao nhất đạt 67,5 tạ/ha cao hơn chắc chắn so với đối chứng 7,8 tạ/ha ở độ tin cậy 95%. Công thức 2 có năng suất lý thuyết đạt 56,6 tạ/ha tƣơng đƣơng đối chứng. - Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất thực thu: Công thức 1 và công thức 4 cho kết quả năng suất thực thu thấp hơn đối chứng từ 3,7 4,0 tạ/ha chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Công thức 2 cho kết quả năng suất thực thụ cao hơn đối chứng 1,1 tạ/ha, nhƣng không chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Có nghĩa là năng suất thực thu ở công thức 2 tƣơng đƣơng với đối chứng. 36 77(01): 35 - 38 Riêng chỉ có công thức 3 là cho năng suất thực thu cao nhất, cao hơn 6,5 tạ/ha so với đối chứng và chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Ảnh hưởng của mật độ đến tổng số quả/cây: So với công thức đối chứng, tổng số quả/cây ở các công thức 1, 2 và 3 thấp hơn từ 1,1 đến 6,7 quả/cây là chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Tổng số quả ở công thức 4 không sai khác so với đối chứng. Nhƣ vậy tổng số quả/cây ở công thức 4 và công thức đối chứng là tƣơng đƣơng nhau và cao hơn các công thức còn lại chắc chắn ở độ tin cậy 95%. - Ảnh hưởng của mật độ đến khối lượng 100 hạt: Ở công thức 1 và 2 có khối lƣợng 100 hạt thấp hơn đối chứng từ 5,2 đến 5,7 g chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Các công thức 3 và 4 có khối lƣợng 100 tƣơng đƣơng so với đối chứng. - Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất lý thuyết: Công thức 1 và công thức 4 cho kết quả năng suất lý thuyết thấp hơn đối chứng 5,4 - 7,3 tạ/ha và thấp hơn chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Công thức 3 có năng suất lý thuyết cao nhất đạt 67,5 tạ/ha cao hơn chắc chắn so với đối chứng 7,8 tạ/ha ở độ tin cậy 95%. Công thức 2 có năng suất lý thuyết đạt 56,6 tạ/ha tƣơng đƣơng đối chứng. - Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất thực thu: Công thức 1 và công thức 4 cho kết quả năng suất thực thu thấp hơn đối chứng từ 3,7 4,0 tạ/ha chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Công thức 2 cho kết quả năng suất thực thu cao hơn đối chứng 1,1 tạ/ha, nhƣng không chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Có nghĩa là năng suất thực thu ở công thức 2 tƣơng đƣơng với đối chứng. Riêng chỉ có công thức 3 là cho năng suất thực thu cao nhất, cao hơn 6,5 tạ/ha so với đối chứng và chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Ảnh hƣởng của mật độ trồng hiệu quả kinh tế của giống lạc L23 trong vụ Xuân 2010 Kết quả hạch toán kinh tế ở các công thức trồng mật độ khác nhau đối với giống lạc L23 trong vụ Xuân 2010 đƣợc thể hiện dƣới qua biểu đồ 1. Mật độ càng lớn thì chi phí cho giống càng cao. Ở công thức 1 với mật độ 50 cây/m2 thì chi phí cho giống là lớn nhất nên tổng chi phí cũng cao nhất (32,32 triệu đồng/ha). Tiếp đó, chi phí giảm dần ở các công thức 2, 3, 5 và thấp nhất ở công thức 4 (30,54 triệu đồng/ha). Nguyễn Viết Hƣng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 35 - 38 Bảng 1. Ảnh hƣởng của mật độ đến các thời gian sinh trƣởng và khả năng phân cành của các giống lạc L23 vụ Xuân 2010 Tổng thời gian sinh trƣởng (ngày) 110 110 112 115 114 - Công thức 1 2 3 4 5 (Đ/c) CV LSD05 Cành cấp 1 (cành/cây) 5,1 5,1 5,1 5.2 5,1 3,1 0,3 Cành cấp 2 (cành/cây) 1,5 1,8 2,5 2,8 2,7 6,1 0,3 Bảng 2. Ảnh hƣởng của mật độ đến mức độ nhiễm một số bệnh ở giống lạc L23 vụ Xuân 2010 Bệnh hại Công thức 1 2 3 4 5 (Đ/c) Gỉ sắt (cấp bệnh) 3 3 3 3 3 Đốm đen (cấp bệnh) 3 3 3 3 3 Đốm nâu (cấp bệnh) 5 5 3 3 3 Héo xanh VK (điểm) 1 1 1 1 1 Bảng 3. Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của giống lạc L23 vụ Xuân 2010 Công thức Triệu đồng/ha 1 2 3 4 5 (Đ/c) CV% LSD.05 Tổng Số quả Tỷ lệ số quả chắc quả 1 /cây /cây nhân (%) 11,1 8,1 9,6 13,5 10,0 14,1 16,7 13,6 9,2 18,0 13,8 8,7 17,8 13,6 10,1 3,6 2,3 1,0 0,5 - Tỷ lệ quả 3 nhân (%) 4,5 0,0 1,5 0,2 0,0 - 50 P 100 hạt (g) 171,2 171,5 172,5 173,6 173,9 0,2 0,7 70,1 69,6 75,6 75,5 75,3 0,5 0,6 Tỷ lệ hạt/ quả (%) 67,6 68,4 69,8 69,5 69,6 0,2 0,3 NS cá thể (g/cây) NSLT (tạ/ha) NSTT (tạ/ha) 10,9 14,2 20,5 21,0 20,6 2,7 0,9 54,3 56,6 67,5 52,4 59,7 3,2 3,5 19,6 24,4 29,8 19,3 23,3 4,5 2,0 44.7 40 30 P 100 quả (g) 36.6 32.32 29.4 34.95 31.76 31.18 30.54 28.95 30.95 Thu Chi Lãi thuần 20 13.52 10 4.84 2.92 4.11 1.59 0 1 2 3 4 5 (Đ/c) Công thức Biểu đồ 1. Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến hiệu quả kinh tế của lạc L23 vụ Xuân 2010 * Ghi chú: Giá lạc và chi phí sản xuất tính tại thời điểm tiến hành thí nghiệm tại Lạng Sơn 37 Nguyễn Viết Hƣng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Trên cùng một điều kiện chăm sóc và mức đầu tƣ (phân bón, thuốc BVTV, nhân công) nhƣ vậy thì ở các công thức mật độ khác nhau cho kết quả năng suất thực thu khác nhau và dẫn đến mức lãi thuần khác nhau. Trong đó, ở công thức 3 với mật độ 33 cây/m2 cho năng suất, tổng thu và lãi thuần cao nhất (29,8 tạ/ha, 44,7 triệu đồng/ha và 13,52 triệu đồng/ha). Lãi thuần cao hơn công thức đối chứng 9,41 triệu đồng/ha. KẾT LUẬN Mật độ trồng có ảnh hƣởng đến thời gian sinh trƣởng của lạc L23. Mật độ càng thƣa thì thời gian sinh trƣởng càng dài. Mật độ cũng có ảnh hƣởng đến khả năng phân cành của cây. Khả năng phân cành càng lớn khi mật độ càng thƣa. Năng suất thực thu của lạc L23 tăng dần và đạt cao nhất ở công thức mật độ trồng 33 cây/m2. Khi mật độ tăng cao hơn từ 33 cây/m2 đến 50 cây/m2 thì năng suất thực thu giảm dần. Mật độ gieo trồng giống lạc L23 thích hợp trên đất một vụ lúa ở huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn là 33 cây/m2 (30 x 10 cm). 77(01): 35 - 38 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ngô Thế Dân (chủ biên), Nguyễn Xuân Hồng, Đỗ Thị Dung, Nguyễn Thị Chinh, Vũ Thị Đào, Phạm Văn Toản, Trần Đình Long, C.L.L. Gowda (2000), Kỹ thuật đạt năng suất lạc cao ở Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [2]. Đƣờng Hồng Dật (2007), Cây lạc và biện pháp thâm canh nâng cao hiệu quả sản xuất, Nxb Thanh Hóa. [3]. Trần Đình Long, Nguyễn Văn Chinh, Nguyễn Văn Thắng, Hoàng Minh Tâm (1999), “Tổng quan tình hình nghiên cứu phát triển tiến bộ trồng lạc ở Việt Nam trong thời gian qua và phƣơng hƣớng trong những năm tới”, Hội thảo về kỹ thuật trồng lạc toàn quốc ở Thanh Hoá. [4]. Boote K.J., Keting DL. (1990), “Growth stages of pranut”, Arachis hypogaea L, Jounrnal series, Florida Agricultural Experiment stations. [5]. Gregory W.C; Krapovickas A. and Gregory M. P (1980), Structure variation evoluation and clasification in Arachis; Advances in Legume science. Proceedings of the International Legume Conference. [6]. Sankara Reddi G.H (1988), Cultivation, storage and marketing in groundnut, India Council of Agricultural Research, kridhi Anusandhan Bhavan, Pusa, New Delhi, pp. 318 - 382. SUMMARY THE INFLUENCE OF PEANUT DENSITY ON THE YIELD OF L23 VARIETY ON ONE-CROP LAND, HUU LUNG DISTRICT, LANG SON PROVINCE, SPRING 2010 Nguyen Viet Hung College of Agriculture and Forestry- TNU Peanut has an important role in rotation with rice, contributing to soil improvement, increasing economic efficiency and revenue per unit area. L23 peanut variety was grown in the experiment of spring 2010 in Huu Lung - Lang Son with different 05 densities from 25 to 50 plants/m2. Between them, the smaller density of L23 results in the longer the growing time and greater ability to branch. Density planting peanut variety L23 on the most suitable one-crop land was 33 cay/m2 (30x10cm). Key words: Groundpeanu, density, yield, one-crop land Tel: 0912386574; Email: Hathuyduc2002@yahoo.com 38 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 39 - 42 NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG CỦA CÂY PHÂN XANH HỌ ĐẬU TRÊN ĐẤT SAU KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN Đặng Văn Minh*, Đào Văn Núi Trường Đại học Nông - Lâm ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Đất sau khai thác khoảng sản tại Thái Nguyên chiếm diện tích lớn, bị thoái hóa và bạc màu. Hiện nay có nhiều phƣơng pháp khác nhau đã đƣợc áp dụng để cải tạo đất bị thoái hoá, bạc màu, nghèo kiệt và cả đất bị ô nhiễm, trong đó có việc sử dụng các biện pháp sinh học. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là thử nghiệm các loại cây phân xanh họ đậu để cải tạo đất nghèo kiệt dinh dƣỡng và thoái hóa do khai thác khoáng sản. Bằng việc lựa chọn một số cây phân xanh họ đậu và trồng thử nghiệm trên đất sau khai khoáng, nghiên cứu đã xác định đƣợc cây trinh nữ không gai và cây muồng lá nhọn có khả năng sinh trƣởng tốt và tạo sinh khối cao để cải tạo đất sau khai khoáng. Từ khóa: Cải tạo đất, đất sau khai khoáng, cây phân xanh họ đậu GIỚI THIỆU Khai thác khoáng sản ở Thái Nguyên chiếm 1 diện tích lớn và đã làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Quá trình khai thác đã làm mất khả năng canh tác của đất nông lâm nghiệp nhƣ: đổ đất đá lên đất trồng trọt, nƣớc thải bùn đất do quá trình tuyển quặng vùi lấp đất canh tác,… Một yêu cầu cấp thiết đặt ra làm thế nào để phục hồi lại khả năng canh tác của đất, khắc phục hậu quả do khai thác khoáng sản để lại. Đất sau khai thác khoáng sản hầu hết không còn khả năng canh tác nông lâm nghiệp, bỏ hoang, làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Phục hồi lại khả năng canh tác của đất, khắc phục hậu quả do khai thác khoáng sản để lại bằng biện pháp sinh học là một hƣớng đi mới, sử dụng các loài cây họ đậu để cải tạo đất [1], [4], [5]. Mục đích của nghiên cứu này là xác định một số loài cây phân xanh họ đậu có khả năng sinh trƣởng tốt trên đất sau khai khoáng tại tỉnh Thái Nguyên để cải tạo và phục hồi loại đất này cho sản xuất nông lâm nghiệp . PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Cây cải tạo đất bản địa và nhập nội đƣợc trồng trên đất sau khai thác quặng sắt và đã đƣợc hoàn thổ. Nghiên cứu đƣợc tiến hành 2009-2010. Địa điểm nghiên cứu bố trí thí Tel:0912334310; Email:dangminh08@gmail.com nghiệm là các bãi thải đất sau khai thác khoáng sản ở khu vực mỏ sắt Trại Cau, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Thí nghiệm đƣợc tiến hành gồm 8 công thức với 3 lần nhắc lại, đƣợc bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên (CRD) [3]: CT 1: Muồng lá nhọn (Cassia occidentalis L.); CT 2: Đậu công (Flemingia congesta); CT 3: Đậu ren (Rensonic); CT 4: Trinh nữ không gai (Mimosa sp); CT 5: Sunnhep (Crotalaria juncea); CT 6: Xục xặc (Sesbania javaica Mi); CT 7: Cốt khí cao (Tephrosia candida); CT 8: Đối chứng (ĐC - không trồng cây). Cây trồng đƣợc theo dõi, đo đếm các chỉ tiêu sinh trƣởng nhƣ chiều cao, phân cành theo phƣơng pháp thông dụng của nghiên cứu thí nghiệm đồng ruộng (1 tháng 1 lần). Với các chỉ tiêu về năng suất chất xanh, chất thô, số lƣợng nốt sần đƣợc tiến hành 6 tháng 1 lần [3]. Số liệu sau khi theo dõi đƣợc xử lý thống kế theo các phƣơng pháp thống kê hiện hành (anova) trên phần mền exel và irristat. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Đất thí nghiệm là đất sau khai thác quặng sắt, đất nghèo kiệt và bị thoái hóa do sự đào bới trong quá trình khai khoáng. Kết quả phân tích đất cho thấy đất có độ pH thấp (5,0), hàm lƣợng các chất dinh dƣỡng ở mức nghèo và trung bìnhnghiên cứu ban đầu (Bảng 1). 39 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Theo dõi khả năng sinh trƣởng các loại cây phân xanh họ đâu trên đất sau khai khoáng cho thấy. Sinh trƣởng chiều cao trong những tháng đầu của tất cả các giống nghiên cứu 77(01): 39 - 42 chậm, tuy nhiên trong các tháng thứ 3 trở đi sự sinh trƣởng nhanh hơn. Trong đó cây trinh nữ không gai là cây thân bụi có khả năng sinh trƣởng chiều dài thân nhanh nhất (Bảng 2). Bảng 1. Thành phần dinh dƣỡng đất tại khu vực bãi thải Hàm lƣợng các chất Khu vực lấy mẫu pH (H2O) OM (%) N (%) P (%) K (%) Bãi thải 5,0 1,646 0,080 0,060 0,162 Khu vực không có khai khoáng 5,5 2,250 0,090 0,089 0,160 Bảng 2. Chiều cao (dài) cây theo giai đoạn Đơn vị: cm Công thức CT 1 CT 2 CT 3 CT 4 CT 5 CT 6 CT 7 CV (%) LSD5% 1 7.07 4.18 3.80 11.05 43.92 14.33 8.94 17,0 3,97 2 32.75 11.11 9.15 35.42 82.63 25.87 26.18 13,7 7,66 Sau trồng tháng 4 5 87.95 127.54 40.66 44.64 41.67 69.75 118.73 155.74 126.46 147.58 62.49 75.97 58.18 72.35 13,8 14,6 18,49 25,33 3 62.75 20.62 23.82 87.17 105.2 43.29 43.03 15,7 15,16 6 146.82 49.25 94.13 175.98 157.67 87.36 86.03 12,8 25,57 7 158.87 54.23 120.45 198.46 164.42 91.21 92.88 14,3 31,51 8 163.20 54.99 127.12 209.89 164.59 94.43 94.81 15,2 34,59 cm Sinh trƣởng chiều cao 250 200 150 100 50 0 Ct1 (muồng lá nhọn) Ct2 (Đậu công) Ct3 (Đậu ren) Ct4 (Xấu hổ không gai) Ct5 (sunnhemp) Ct6 (xục xặc) 1 2 3 4 5 6 7 8 Sau trồng tháng Hình 1. Sinh trƣởng chiều cao của cây 40 Ct7 (Cốt khí cao) Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Sự sinh trƣởng phát triển của các các loại cây phân xanh cải tạo đất còn thể hiện sự ra nhánh qua các thời điểm theo dõi. Các giống ra nhánh nhiều thì khả năng cho sinh khối sẽ lớn [2] . Kết quả theo dõi về sự ra nhánh của các giống trong thí nghiệm cho thấy, sau khi trồng 2 đến 3 tháng các giống bắt đầu ra nhánh (Bảng 3). Trong đó cây trinh nữ không gai và cây sunnhep khả năng ra nhánh cao nhất ngay từ tháng thứ 2 sau trồng. Khả năng cải tạo đất của các loài cây phân xanh họ đậu đƣợc đánh giá qua các chỉ tiêu: năng suất chất xanh, chất khô, số lƣợng nốt sần trên cây. Chỉ tiêu về năng suất chất xanh, chất khô và số lƣợng nốt sần thể hiện khả năng cải tạo đất của cây đó là sự trả lại các chất xanh tạo mùn và cung cấp dinh dƣỡng cho đất. Kết quả theo dõi hàm lƣợng chất 77(01): 39 - 42 xanh và chất khô của các giống thí nghiệm thể hiện ở bảng 4 và hình 2. Khả năng sau 6 tháng trồng, cây muồng lá nhọn và cây trinh nữ không gai cho sinh khối chất xanh và chất khô cao nhất. Trong đó cây trinh nữ không gai sinh trƣởng tốt nhất, là cây cho năng suất chất xanh – chất khô cao nhất với lƣợng 18,9 tấn/ha chất xanh và 4,46 tấn/ha chất khô (Bảng 4); đồng thời cũng là loài cây cho số lƣợng nốt sần nhiều nhất với 635,33 nốt/cây (Bảng 5). Đây là loài cây đƣợc nhập nội vào Việt Nam, loài cây này không giống nhƣ loài trinh nữ thƣờng có gai. Loài này không gai nên có thể làm thức ăn cho gia súc. Cũng theo nhƣ tác giả Trần An Phong, cây trinh nữ không gai là cây phân xanh có tác dụng che phủ đất chống xói mòn, lấn át cỏ dại, đồng thời làm phân xanh rất tốt [2]. Bảng 3. Sự ra nhánh của các cây phân xanh họ đậu trong thí nghiệm Đơn vị: nhánh/cây Công thức 1 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0,0 0,00 CT 1 CT 2 CT 3 CT 4 CT 5 CT 7 CV (%) LSD5% 2 0.03 0.03 0.00 4.27 2.33 0.00 37,9 0,63 3 0.40 0.47 0.00 8.43 2.27 0.30 32,5 0,97 Sau trồng tháng 4 5 1.17 2.03 1.33 1.73 0.87 1.30 13.87 15.97 2.80 3.90 1.66 2.58 26,7 27,5 1,45 2,58 6 2.13 1.87 1.40 17.97 4.47 3.53 28,8 3,53 7 2.53 2.07 1.67 19.3 4.77 4.44 30,0 4,43 8 2.63 2.23 2.40 20.27 4.80 5.67 25,3 5,67 Bảng 4. Năng suất chất xanh, khô của các giống thí nghiệm Đơn vị: tấn/ha Sau khi trồng 6 tháng Chất xanh Chất khô 14.23 5.40 2.39 0.99 3.87 1.83 18.29 6.46 5.56 2.18 1.77 0.66 3.98 2.06 Công thức Ct1 (muồng lá nhọn) Ct2 (Đậu công) Ct3 (Đậu ren) Ct4 (Trinh nữ không gai) Ct5 (sunnhep) Ct6 (xục xặc) Ct7 (Cốt khí cao) Bảng 5. Số lƣợng nốt sần (nốt sần/cây) Công thức Sau trồng 6 tháng CT 1 CT 2 CT 3 CT 4 CT 5 CT 6 CT 7 CV (%) LSD5% 69,00 15,00 42,67 635,33 12,33 202,33 26,67 6,2 15,62 41 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ KẾT LUẬN Hầu hết các cây phân xanh họ đậu thử nghiệm trên đất sau khai thác khoáng sản tại Thái Nguyên đều sinh trƣởng phát triển đƣợc trên loại đất nghèo kiệt và thoái hóa này. Trong số các loại cây phân xanh cải tạo đất đƣợc nghiên cứu, cây trinh nữ không gai và cây muồng lá nhọn là cây có khả năng sinh trƣởng nhanh, khả năng tạo chất xanh trả lại đất cao nhất, có số lƣợng nốt sần/cây rất cao. Cần tiếp tục nghiên cứu hai loại cây này trên các loại đất khai khoáng có địa hình khác nhau để có thể nhân giống và phổ biến mở rộng mô hình trồng, để cải tạo diện tích đất bị nghèo kiệt. 77(01): 39 - 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Lê Đức, Trần Khắc Hiệp (2006), Giáo trình đất và bảo vệ đất, Nxb Hà Nội [2]. Trần An Phong (1977), Gieo trồng và sử dụng cây phân xanh. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [3]. Hoàng Văn Phụ, Đỗ Thị Ngọc Oanh (2002), Giáo trình phương pháp nghiên cứu trong trồng trọt, Giáo trình Cao học. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [4]. Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên (2002), Cây phủ đất ở Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [5]. Hà Đình Tuấn (2000), Cây phủ đất Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Hình 2. Năng suất chất xanh - chất khô SUMMARY STUDY GROWTH OF WILD LEGUMES IN THE DEGRADED SOIL AFTER MINING IN THAI NGUYEN PROVINCE Dang Van Minh, Dao Van Nui College of Agriculture and Forestry- TNU Degraded soils after mining occupied a large area of Thai Nguyen province. These soils are very poor and can often not be used for agriculture. There are many different methods have been applied to improve degraded, discolored, poor and contaminated soils. One among these methods, using biological method seems to be suitable to farmers. The objective of this study is to testing some green manure plants and leguminous species to improve soil after mining in Thai Nguyen province that is considered as a sustainable method. Results of the study indicated that Cassia occidentalis L. and Mimosa sp are potential plants that can be used to grow and improve these poor soils after mining. Keywords: soil improvement, post-mining land use, legume green manuring Tel:0912334310; Email:dangminh08@gmail.com 42 Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƢƠNG TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG TẠI RỪNG ĐẶC DỤNG HỮU LIÊN, HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN Nguyễn Hữu Giang* Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Nguyên nhân dẫn đến tình trạng diện tích và chất lƣợng rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên bị suy giảm liên tục là do công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng còn nhiều bất cập, việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng không những chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao mà còn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Kết quả nghiên cứu thấy rằng hình thức quản lý rừng và đất rừng do hộ gia đình quản lý là có hiệu quả nhất, hiệu quả thấp nhất là do Ban quản lý rừng đặc dụng quản lý. Tất cả ngƣời dân ở các thôn bản sống trong RĐD đã tham gia xây dựng “Quy ƣớc bảo vệ rừng” tuy nhiên hầu hết ngƣời dân chƣa quan tâm đến bản cam kết này. 80,07% số hộ không biết gì về chƣơng trình 661 và các chính sách liên quan đến cơ chế hƣởng lợi trong trồng rừng, việc chỉ thuê khoán lao động theo thời vụ giữa Ban quản lý QĐD với ngƣời dân đã không tạo ra sinh kế ổn định lâu dài cho hộ gia đình thông qua thực hiện chƣơng trình 661. Từ khóa: Quản lý rừng, rừng, cộng đồng, rừng đặc dụng, Hữu Liên; Lạng Sơn ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng đặc dụng (RĐD) Hữu Liên lần đầu tiên đƣợc Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng quyết định thành lập vào năm 1986 có diện tích 3.000ha. Năm 1992 đƣợc Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ NN&PTNT) quy hoạch lại. Năm 2006 đƣợc UBND tỉnh Lạng Sơn tái thành lập với diện tích 10.640ha, Ban quản lý RĐD Hữu Liên là một đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở NN&PTNT tỉnh Lạng sơn. Toàn bộ diện tích RĐD Hữu Liên nằm trên địa phận của 5 xã thuộc huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Sự bùng nổ dân số, sự phát triển không ngừng của xã hội đã dẫn đến nhu cầu sinh hoạt của ngƣời dân sống trong khu vực RĐD Hữu Liên ngày càng tăng đặc biệt là nhu cầu về gỗ làm nhà, đóng đồ, củi đun... Mặt khác nhu cầu gỗ, lâm sản ngoài gỗ trên thị trƣờng nhất là các loại gỗ quý hiếm rất cao nên ngƣời dân đã bị các đối tƣợng xúi giục lôi kéo, tiếp tay cho các hành vi khai thác, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép đã dẫn đến hậu quả là TNR tại RĐD Hữu Liên bị xâm hại. Từ yêu cầu thực tế trên, rất cần thực hiện nghiên cứu về thực trạng quản lý và sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng trong công tác quản lý rừng (QLR) tại RĐD Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn nhằm tìm ra hình thức QLR có hiệu quả nhất. Tel: 0982688286; Email: huugiangkn@gmail.com MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mục tiêu nghiên cứu Phân tích, đánh giá thực trạng QLR và sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng trong công tác quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở đi sâu tìm hiểu các hoạt động bảo vệ, sử dụng rừng, từ đó xác định đƣợc khó khăn, bất cập và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLR. Nội dung nghiên cứu - Thực trạng quản lý rừng đặc dụng; - Sự tham gia quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng; - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLR. Phƣơng pháp nghiên cứu - Kế thừa tài liệu từ một số báo cáo tổng kết, đánh giá về tình hình quản lý rừng do Ban quản lý rừng đặc dụng, UBND các xã cung cấp (trong 5 năm gần đây); - Phƣơng pháp RRA để phỏng vấn có định hƣớng với tổng số 25 lãnh đạo của cơ quan quản lý trực tiếp (Sở Nông nghiệp và PTNT, huyện Hữu Lũng, Ban quản lý rừng và 5 xã có rừng); - Sử dụng một số công cụ PRA: Đi lát cắt, Sơ đồ tài nguyên, Sơ đồ venn, phƣơng pháp phân tích điểm mạnh điểm yếu, cơ hội thách thức (SWOT) và điều tra phỏng vấn trực tiếp 120 hộ gia đình tiêu biểu trong khu vực; 43 Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ - Phƣơng pháp xử lý số liệu: Sử dụng thống kê toán học dƣới dạng các bảng biểu để tổng hợp các thông tin thu đƣợc. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Thực trạng quản lý rừng đặc dụng Rừng đặc dụng Hữu Liên hiện đang có 4 hình thức QLR chủ yếu đó là: (i) Rừng và đất rừng do cộng đồng quản lý (Gọi là tổ giữ rừng): Mỗi thôn bản tùy theo diện tích rừng đƣợc quản lý nhiều hay ít mà lập ra từ 1 - 4 tổ giữ rừng, mỗi tổ có từ 3-7 thành viên. Hoạt động của tổ giữ rừng là phối hợp với kiểm lâm và đội 12 của xã để thƣờng xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát và đôn đốc ngƣời dân trong thôn thực hiện tốt việc bảo vệ diện tích rừng đã ký hợp đồng bảo vệ. Tổ giữ rừng đƣợc hƣởng thù lao hàng tháng trích từ nguồn quỹ của thôn, mức hƣởng do hội nghị toàn thôn quyết định. Trong đó kiểm lâm hỗ trợ 200.000đ/tháng cho công tác quản lý bảo vệ, phần quỹ còn lại do bà con đóng góp hoặc lấy từ tiền xử phạt các vụ vi phạm TNR hay thu tiền của những ngƣời không tham gia lao động công ích (Mức thu từ 15.000 - 30.000 đồng tùy theo thực trạng kinh tế của từng thôn); (ii) Rừng do ban quản lý rừng đặc dụng Hữu Liên quản lý, tổng số 3.308 ha; (iii) Đội 12 của các xã (Đội 12 đƣợc thành lập theo Chỉ thị số 12/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ). Hoạt động của Đội 12 là tổ chức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về rừng tới cộng đồng dân cƣ trong các thôn bản thông 77(01): 43 – 48 qua hệ thống loa thông tin đại chúng và tăng cƣờng phối hợp với kiểm lâm tuần tra bảo vệ rừng, kiểm tra trên khâu lƣu thông, vận chuyển lâm sản trái phép, bắt giữ và xử lý các đối tƣợng vi phạm và (iv) Rừng do hộ gia đình quản lý: Kết quả ký hợp đồng bảo vệ rừng với hộ gia đình năm 2009 đƣợc thể hiện qua bảng 1. Theo khoản 8, Quyết định số 02/CP, ngày 15/1/1994, quá trình ký kết hợp đồng bảo vệ rừng với các hộ gia đình trong RĐD Hữu Liên bắt đầu từ năm 1994. Đến hết năm 2009, Ban quản lý RĐD đã giao 7.332ha rừng cho 427 hộ sống tại 23 thôn của 5 xã quản lý. Các hợp đồng bảo vệ rừng đƣợc ký đối với các trƣờng hợp mà các điều kiện không phù hợp để di dời dân cƣ sống trong khu bảo vệ nghiêm ngặt, cho phép các hộ sống hài hòa trong sự bảo vệ quản lý. Trong khuôn khổ các hợp đồng này, các hộ gia đình đƣợc phép thu lƣợm củi đun và các sản phẩm không thuộc gỗ khác nhƣng không đƣợc phép chặt cây. Đổi lại họ đƣợc nhận 90.000đ/ha/năm, các hợp đồng có giá trị trong 1 năm và có thể thay đổi. Cán bộ Ban quản lý RĐD kiểm tra hàng năm và có thể hủy bỏ hợp đồng đối với các hộ gia đình quản lý không tốt, năm 2009 vẫn có 103/427 hộ vi phạm hợp đồng. Để tìm hiểu hiệu quả quản lý rừng, đề tài đã tiến hành phỏng vấn 120 hộ về vai trò của các bên trong việc quản lý rừng, kết quả thể hiện ở bảng 2. Bảng 1. Kết quả ký hợp đồng bảo vệ rừng với hộ gia đình năm 2009 TT Xã 1 2 3 4 5 Yên Thịnh Hữu Liên Hữu Lễ Vạn Linh Hòa Bình Cộng Số thôn tham gia QLR 7 12 1 2 1 23 Số hộ tham gia (hộ) 124 263 17 10 13 427 Diện tích (ha) 1.860 4.658 253 211 350 7.332 Số hộ vi phạm hợp đồng (hộ) 33 63 5 1 1 103 Bảng 2. Hiệu quả quản lý rừng của các bên tham gia Mức độ Các bên tham gia 1. Hộ gia đình 2. Tổ giữ rừng 3. Ban QLR đặc dụng 4. Đội 12 44 Rất hiệu quả Hiệu quả Trung bình 81.67 0 0 0 15 0 0 0 3.33 39.17 0 0 Ít hiệu quả Không hiệu quả 0 60.83 90.83 56.35 0 0 9.17 43.65 Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Kết quả cho thấy: Hiệu quả quản lý rừng cao nhất là hộ gia đình (96,67% ý kiến đánh giá là rất hiệu quả và có hiệu quả 3,33% ý kiến ở mức trung bình). Ở cách quản lý này, mặc dù quyền sở hữu tài nguyên rừng không thuộc về ngƣời dân nhƣng quan hệ giữa ngƣời dân với Ban quản lý RĐD và các bên tham gia khác là chặt chẽ do các mối quan hệ xã hội, làng xã, gia đình tạo dựng nên. Mặt khác ngƣời dân phải tự chịu trách nhiệm với diện tích rừng đã ký kết do vậy hiện tƣợng vi phạm hợp đồng ít hơn. Tiếp theo là đến Tổ giữ rừng (39,17% đánh giá ở mức trung bình còn lại là ít hiệu quả). Với ban QLR và đội 12 thì 100% ý kiến đánh giá ở mức ít và không có hiệu quả. Đội 12 không quản lý trực tiếp rừng mà chỉ phối hợp với kiểm lâm, tổ giữ rừng để phổ biến, tuyên truyền, tuần tra kiểm soát. Nhƣ vậy, hiệu quả QLR trực tiếp kém nhất là rừng do Ban quản lý RĐD Hữu Liên quản lý. Phân tích thực trạng để tìm ra nguyên nhân sự kém hiệu quả trong công tác QLR của ban quản lý RĐD Hữu Liên nhƣ sau: - Tổ chức nhân sự: Từ 01/01/2008 Ban quản lý đƣợc kiện toàn lại gồm có 09 ngƣời, trong đó cán bộ có trình độ đại học 04 ngƣời, cán bộ có trình độ trung cấp 05 ngƣời. Ban quản lý phân làm 02 phòng là phòng hành chính tổng hợp 03 ngƣời (gồm 01 lãnh đạo, 01 kế toán, 01 văn thƣ thủ quỹ kiêm tạp vụ) và phòng kỹ thuật tuyên truyền kiêm địa bàn gồm 06 ngƣời; - Do công tác QLR chƣa đồng nhất từ Ban quản lý RĐD cũ thuộc Hạt Kiểm Lâm sang Ban quản lý RĐD mới thuộc Sở NN&PTNT tỉnh Lạng Sơn có khe hở nên bọn lâm tặc lợi dụng và một số cán bộ Ban quản lý RĐD mới là chủ rừng nhƣng thiếu trách nhiệm, lợi dụng chức quyền thu tiền hối lộ lâm luật của bọn lâm tặc và cấu kết với một số tổ trƣởng tổ giữ rừng làm sai quy chế bảo vệ rừng; - Cán bộ lãnh đạo Ban quản lý RĐD là ngƣời mới, còn nhiều hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, chƣa có kinh nghiệm trong lãnh đạo điều hành đơn vị (Trƣởng Ban quản lý về nhận công tác từ 10/10/2007, hiện chƣa có Phó trƣởng ban); - Nhân viên trong Ban QLR cũng là ngƣời mới tham gia công tác nên còn bỡ ngỡ, chƣa có kinh nghiệm, chƣa ai đƣợc tham gia tập huấn về quản lý rừng; - Địa bàn hoạt động rộng, địa hình phức tạp, xa sự giám sát của lãnh đạo, phƣơng tiện đi lại không có. Cơ sở vật chất và các trang thiết bị phục vụ cho công tác còn quá nghèo nàn nên cũng ảnh hƣởng lớn đến tâm lý của cán bộ và chất lƣợng công việc. Kết quả nghiên cứu về các hoạt động khai thác, sử dụng rừng của ngƣời dân cho thấy thu nhập từ lâm nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng thu nhập của hộ. Với hộ nghèo thu nhập từ lâm nghiệp khoảng 2,5 triệu đồng chiếm 22,27%, hộ trung bình 3,5 triệu đồng chiếm 20,03% và hộ khá là gần 4 triệu đồng chiếm 14,89%. Loại lâm sản được thu hái từ rừng Thu nhập từ lâm nghiệp so với tổng thu nhập 30,000,000 20,000,000 Tổng thu Lâm nghiệp 10,000,000 5,000,000 0 Hộ nghèo Hộ trung bình Hộ khá Tổng thu 11,593,740 18,035,802 26,324,313 Lâm nghiệp 2,581,844 3,613,094 3,919,688 Hình 1. Thu nhập từ lâm nghiệp so với tổng thu Tỷ lệ % số hộ Đồng/năm 25,000,000 15,000,000 77(01): 43 – 48 100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0 92 68 57 40 13 Cây thuốc Thực phẩm Nguyên liệu thủ công Vật liệu xây dựng Khác Hình 2. Tỷ lệ % các loại lâm sản đƣợc thu hái từ rừng 45 Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Lâm sản ngƣời dân thu hái từ rừng rất đa dạng và đƣợc chia thành 5 loại đó là làm thuốc, thực phẩm, nguyên liệu thủ công, vật liệu xây dựng và một số công dụng khác. Trong số này nhiều sản phẩm đƣợc sử dụng ở địa phƣơng, phần còn lại nhƣ động vật rừng và cây thuốc đƣợc ngƣời dân địa phƣơng đem bán. Việc chặt cây để làm nhà, đóng đồ, làm hàng rào và củi đun là nhu cầu chính đáng của ngƣời dân, tuy nhiên trên thực tế việc lạm dụng khai thác những loài cây gỗ có giá trị ( Nghiến, Hoàng Đàn…) đang diễn ra hết sức phức tạp và quyết liệt mặc dù ngƣời dân hiểu đƣợc rằng việc chặt cây lấy gỗ đƣợc coi là phạm pháp cho dù với bất cứ mục đích gì, ngoại trừ dùng cho việc làm nhà nhƣng phải đƣợc sự đồng ý của chính quyền địa phƣơng. Mùa cao điểm khai thác gỗ là vào những tháng cuối năm trong khoảng từ tháng 8-12 âm lịch. Lâm sản ngoài gỗ rất đa dạng và đƣợc hầu hết các hộ gia đình thu hái để sử dụng và bán. Kết quả điều tra cho thấy: Có tổng số 81 loài thực vật lâm sản ngoài gỗ đƣợc ngƣời dân khai thác sử dụng, trong đó có tới 48 loài đƣợc ngƣời dân sử dụng làm dƣợc liệu, chiếm 59,3%; Nhóm loài làm rau ăn có 20 loài, chiếm 24,7%; Nhóm loài lấy bột có 5 loài, chiếm 6,2% và nhóm loài làm thủ công mỹ nghệ có 8 loài, chiếm 9,9%. Nhƣ vậy, ngƣời dân khai thác các loài lâm sản ngoài gỗ để làm dƣợc liệu chiếm tỷ lệ cao nhất, đây là điểm cần lƣu ý trong quản lý tài nguyên cây thuốc và kiến thức bản địa về sử dụng thảo mộc làm thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số đặc biệt là trong cộng đồng ngƣời Dao. Sự tham gia quản lý bảo vệ rừng của cộng đồng Tham gia xây dựng “Quy ƣớc bảo vệ rừng” ở cấp thôn bản: Tất cả các thôn bản đều đã xây dựng xong quy ƣớc bảo vệ rừng, bên cạnh đó việc ký cam kết bảo vệ rừng của ngƣời dân đã đƣợc triển khai đến tất cả các thôn bản có ngƣời dân sống trong RĐD, tuy nhiên hầu hết ngƣời dân chƣa quan tâm đến bản cam kết này do họ không nhận đƣợc sự hỗ trợ gì để cải thiện cuộc sống. Các bản cam kết này đƣợc lập bằng tiếng phổ thông trong khi trên địa bàn có 70% dân số là ngƣời dân tộc thiểu số, trong số đó khoảng 30% không biết tiếng phổ thông nên họ không hiểu. Vai trò của các 46 77(01): 43 – 48 già làng chƣa đƣợc phát huy trong các hoạt động văn hóa, xã hội và công tác bảo vệ rừng (do già làng không có phụ cấp gì). Sự tham gia của các hộ gia đình vào chƣơng trình 661: Qua phỏng vấn cho thấy 80,07% số hộ không biết gì về chƣơng trình 661 và các chính sách liên quan đến cơ chế hƣởng lợi trong trồng rừng. Ngƣời dân chỉ biết tham gia trồng rừng, bảo vệ rừng theo thuê khoán của Ban quản lý. Điều này cho thấy chính sách chƣa đƣợc phổ biến đến dân, Ban quản lý nắm giữ chính sách và thực hiện theo kế hoạch riêng, ngƣời dân mất cơ hội chọn lựa các giải pháp thích hợp cho mình. Nghiên cứu cho thấy sự hƣởng lợi của các hộ chủ yếu là (i) Đƣợc thuê và trả công trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng trồng tuy nhiên số hộ tham gia cũng không nhiều, tối đa là 15%. Sự thuê khoán lao động theo thời vụ giữa Ban quản lý RĐD với ngƣời dân đã không tạo ra sinh kế ổn định lâu dài cho hộ gia đình thông qua thực hiện chƣơng trình 661 và (ii) Ký hợp đồng bảo vệ rừng tự nhiên: Việc ký hợp đồng bảo vệ rừng giữa hộ gia đình với ban quản lý RĐD đƣợc thực hiện hàng năm, tuy nhiên vẫn còn một số hộ vi phạm hợp đồng mà nguyên nhân chính là thiếu tiền để chi trả cho các hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Khi thiếu tiền, ngƣời dân có thể chặt cây lấy gỗ bán mặc dù họ biết làm nhƣ vậy là vi phạm. Rõ ràng là trách nhiệm của một số ngƣời dân chƣa cao, ngƣời dân không có chuyên môn nên ngoài việc sử dụng các sản phẩm từ rừng thì họ không có tác động nào để xây dựng và phát triển rừng. Công tác bảo vệ rừng có ảnh hƣởng tiêu cực đến đời sống nông hộ nhƣ giảm thu nhập và giảm sản lƣợng khai thác các sản phẩm khác từ rừng, bên cạnh đó cũng có những ảnh hƣởng tích cực từ công tác này. Kết quả điều tra 120 ngƣời về sự ảnh hƣởng của hoạt động bảo vệ rừng đến đời sống hộ, cho thấy. (i) Có 5 vấn đề đƣợc ngƣời dân đánh giá về sự ảnh hƣởng tiêu cực của hoạt động bảo vệ rừng đến đời sống hộ đƣợc xếp theo thứ tự từ cao đến thấp nhƣ sau: Giảm sản lƣợng khai thác các sản phầm từ rừng (có 82% ý kiến); Giảm thu nhập (67% ý kiến); Giảm diện tích chăn thả gia súc (48% ý kiến); Giảm diện tích đất sản xuất (46% ý kiến); Các ý kiến khác (21% ý kiến). Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Rõ ràng là khi rừng đƣợc bảo vệ nghiêm ngặt hơn thì ngƣời dân không thể tự do khai thác các sản phẩm từ rừng, họ không thể phá rừng để lấy đất sản xuất nông nghiệp và không thể tự do chăn thả gia súc. Tất cả các yếu tố này đều làm giảm thu nhập của hộ. (ii) Có 6 vấn đề đƣợc ngƣời dân đánh giá về những tác động tích cực của bảo vệ rừng đến đời sống hộ đó là: Môi trƣờng tốt hơn (69% ý kiến); Nguồn nƣớc ổn định cho sinh hoạt, sản xuất (68% ý kiến); Giảm lũ vào mùa mƣa (51% ý kiến); Tăng thu nhập từ công bảo vệ rừng (36% ý kiến); Cải thiện cơ sở hạ tầng (21% ý kiến); Các ý kiến khác (16% ý kiến). Nhƣ vậy ngƣời dân cũng đã nhận thấy đƣợc vai trò to lớn của rừng với môi trƣờng và trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt của họ. * Những hạn chế trong việc cuốn hút cộng đồng tham gia vào quản lý rừng: - Ngƣời dân sống trong và xung quanh RĐD chƣa thấy đƣợc lợi ích do việc thành lập RĐD mang lại. Họ chỉ thấy việc thành lập RĐD là gây ra nhiều khó khăn trong cuộc sống của họ; - Ranh giới của RĐD, ranh giới của vùng đệm đƣợc xác định rõ ràng trên bản đồ tuy nhiên trên thực địa thì rất khó khăn để xác định nên nhiều khi ngƣời dân không biết mình có xâm phạm vào ranh giới khu bảo tồn không; - Thiếu sự phối hợp với các chƣơng trình quốc gia hay các dự án trong lĩnh vực quản lý bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phát triển rừng (Giao đất, giao rừng, khoán khoanh nuôi bảo vệ, trồng rừng...); - Ngƣời dân thiếu vốn để đầu tƣ sản xuất, thiếu kiến thức kỹ thuật về trồng, gieo ƣơm và các kỹ thuật trong sản xuất lâm nông nghiệp. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rừng Trên cơ sở phân tích thực trạng QLR và sự tham gia quản lý bảo vệ rừng của ngƣời dân, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao khả năng QLR tại RĐD Hữu Liên nhƣ sau: - Tiếp tục thực hiện giao khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình quản lý, gắn trách nhiệm hơn nữa với các hộ và có chế tài mạnh hơn để xử lý các hộ vi phạm hợp đồng, nếu hộ nào vi phạm hợp đồng trong 2 năm liên lục thì không giao khoán bảo vệ trong năm tiếp theo; - Kiện toàn lại bộ máy lãnh đạo ban quản lý RĐD, cử lần lƣợt cán bộ đi tập huấn nâng cao năng lực về công tác quản lý bảo vệ rừng; - Đổi mới cách thức hoạt động của đội 12 bằng cách phối hợp tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền cho cộng đồng dân cƣ về luật bảo vệ và phát triển rừng, các văn bản liên quan đến bảo vệ rừng...; - Ban quản lý RĐD cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với chính quyền và các tổ chức trong xã, thôn để thực hiện công tác QLR, phối hợp với ngân hàng để hƣớng dẫn ngƣời dân vay vốn đầu tƣ vào sản xuất, nâng cao năng xuất, chất lƣợng các mặt hàng nông sản. Bảo vệ rừng làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống nông hộ 70 60 50 Bảo vệ rừng có tác động tích cực đến đời sống nông hộ 80 82 67 46 % số hộ % số hộ 90 80 48 40 30 20 21 10 0 Giảm diện tích đất Giảm sản lượng Giảm diện tích sản xuất khai thác các sản chăn thả gia súc phẩm khác từ rừng Giảm thu nhập 77(01): 43 – 48 Khác 70 60 50 40 30 20 10 0 69 68 51 36 21 Nguồn nước ổn Giảm lũ vào Tăngthêmthu Cải thiện cơsở Môi trườngtốt định cho sản mùa mưa nhập từcông hạ tầng hơn xuất và sinh khoán BVR hoạt 16 Khác Hình 4. Ảnh hƣởng của hoạt động bảo vệ rừng đến đời sống nông hộ 47 Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bảo Huy và cộng sự (2005), “Báo cáo nghiên cứu tham vấn hiện trường khu vực tây nguyên về Lâm nghiệp, giảm nghèo và sinh kế nông thôn ở Việt nam”, Chƣơng trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp và đối tác, Hà Nội. [2]. Nguyễn Ngọc Lung (1998), “Forest management system and forestry policies in Vietnam. Proceeding of the national seminar on sustainable 77(01): 43 - 48 forest management and forest certification” (Ho Chi Minh City 1-12 February 1998) [3]. Furey, N., L.X.Cảnh và Fanning, E (2000) “Khảo sát đa dạng sinh học và đánh giá công tác bảo tồn tại khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên”, Chƣơng trình nghiên cứu rừng Frontier-Việt Nam do Tổ chức khám phá môi trƣờng LONDON và Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Hà Nội SUMMARY THE CURRENT SITUATION OF FOREST MANAGEMENT AND THE PARTICIPATORY OF LOCAL COMMUNITY IN FOREST PROTECTION AT HUU LIEN SPECIAL-USE FOREST, HUU LUNG DISTRICT, LANG SON Nguyen Huu Giang College of Agriculture and Forestry – TNU Inappropriate management of forest resources is a reason leads to continuous degradation of area and quality of forest in Huu Lien special use forests. The low efficiency of forest resource management doest not meet the needs of sustainable development in economic, social and environment. The result of study shows that household management of forest and forest land is the most effective management and Special used forest management board is the most low effective management. All people living in villages of the special-used forest have participated in the construction "Protecting forest convention" but most people have not interested in this pledge. 80,07% of households have not known anything about 661 programs and policies related to the mechanism of benefit in the reforestation, the only hire seasonal labor exchange between the special used-forest management with the people has not created the long-term stability of livelihoods to households through the program 661 Keywords: Forest management, forest, community, special use forests, Huu Lien - Lang Son Tel: 0982688286; Email: huugiangkn@gmail.com 48 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 49 - 54 INDIGENOUS STUDY ABOUT NATIVE PLANT SPECIES ERYTHROPALUM SCANDENS BL (BO KHAI) IN THE NORTHERN MOUNTAINOUS REGION OF VIETNAM Dang Van Minh, Dang Kim Vui, Nguyen Chi Hieu College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University SUMMARY Erythropalum scandens BL (local name is Bo Khai) are native plant species in Northern mountainous region of Vietnam. These plant species have been widely used by local people as vegetable and medicinal herb. However, there are still very few research and little information about these plants. The overall project objective of this study is to apply farmer approach to understand the natural growth and distribution, value and scarcity of native plant species Erythropalum scandens BL in the Northern mountainous region of Vietnam. Results of the research indicated that these plants were found in both limestone and hill land ecosystems. Erythropalum scandens BL was found mostly in foot slope and catchment areas. Young plants of Erythropalum scandens BL grow well in shade light under thick forest. Market demand of these vegetables is high as being good taste and considering clean vegetables. These plant species have been over exploited, increasing scarcity in the region. Farmers have collected seedlings and seeds from forests to grow in their gardens as new crops but without much success due to lack of knowledge and technology. Keyword: Native plant species, indigenous knowledge, natural growth and distribution, scarcity INTRODUCTION The Northern Mountainous Region (NMR) is home to a large proportion of Vietnam‟s population and includes representatives of thirty-five ethnic minority groups. Poor literacy and low education levels create a poverty trap that is difficult to overcome. Way of living of people in this region still follows self-sufficient method with heavily depending on forest. However, the forests in this region have come under increasing pressure by many interrelated forces as overexploiting, shifting cultivation, exploitation for agriculture. Non timber forest products (NTFP) are one main source of income of local people in mountain areas. In this region, the NTFPs have been traditionally exploited by local people for food and other uses, such as medicine or materials for handicraft. NTFPs, therefore, are considered as an important income generation source for local people, particularly for those whose living is much dependent on forest (Vu Van Dung et al., 2002). Tel:0912334310; Email:dangminh08@gmail.com Among NTFPs, there are some native plant species in NMR are popularly being used by local people as food stuff and vegetable, e.g. Erythropalum scandens BL (local name is Bo Khai) that have been widely used by local people as vegetable and medicinal herb. Recently, some local people have collected these plants from forest and sold to traders in city. These vegetables are expensive as considering clean and special vegetable with very good taste. Consequently, these wild plant species in forest are being over exploited and in some places they are nearly disappeared. Many farmers in the NMR now can recognize the importance of these species for their life, but there are increasing difficulties for collection of plants from natural forests. This is understandable, since these species are exploited by many people. Farmers, who have been working and living on their place for a long time, usually understand the plants in their place well. Chamber (1983) stated that farmers‟ knowledge about the specific conditions in which they produce may be more exact than and often superior to that of researchers who 49 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ are outsiders. Farmers‟ knowledge is sometimes referred to indigenous knowledge or rural people‟s knowledge. Eyzaguirre (1988) defined indigenous knowledge (here referring to indigenous technical knowledge) as a body of information applied to the management of natural resources and labor at a specific place. Scoones and Thompson (1994) considered farmers‟ knowledge to be highly specific and contextually bound knowledge emerging from localized and practical experience. Farmers‟ knowledge and scientific knowledge usually complement each other in sustainable programs as they are both general and specific, theoretical and practical (Scoones and Thompson, 1994). Eyzaguirre (1988) suggested that the use of indigenous technical knowledge would be useful in adapting new technologies. Farmers in many developing countries have a great potential to identify new crops and technologies that can provide the basis of more specialized, non-traditional and highvalue exports. For example, in the rice farming system in Asia, rice researchers tried to incorporate farmers‟ perspectives into identification of research issues and setting research priorities. The concept “farmer-backto-farmer”, “farmer-first”, or “farmer-based experimentation” was successfully applied in many places (Fujisake, 1992). The overall project objective of this study is to apply farmer approach to understand the natural growth and distribution, value and scarcity of native plant species Erythropalum scandens BL. in the Northern mountainous region of Vietnam. The results of this study will be good reference to develop scientific research priority to conserve these plants in forests and develop techniques to grow them in gardens as new crop.. METHODOLOGY The study was taken places in the Bac Kan province, which is approximately 160 kilometers north of Hanoi, the capital of Vietnam.. The study places are rich in natural resources with various native plant species growing due to diverse climate and other physical conditions (Castella and Dang, 2002). 50 77(01): 49 - 54 Participatory method was highly appropriate approach to collect information. Survey was conducted to get fully understanding indigenous knowledge of local farmers regarding natural growth and distribution, value and scarcity of native plant species, as well as market orientation of these products in the local areas. The questionnaire was developed based on the minimum socioeconomic survey approach described by Moran (1989). The questionnaire was used as an interview guide, in which the questions were structured in a way that was understood easily by the farmers. The questionnaire guide was pretested and corrections were then made to ensure that questions incorporated into the final survey were understandable by the farmers and satisfied the research objectives. Sample size of the farmer survey was 62 farmers from two selected districts named Bach Thong and Cho Don districts of Bac Kan province. Both qualitative and quantitative information described and recorded by farmers were synthesized. The results were then presented in a cross-tabular form as means and percentages. RESULTS AND DISCUSSION Farmer perceptions about natural distribution and growth of plants Erythropalum scandens BL (local name is Bo Khai) are wild plant species and very popular in the study areas. Erythropalum scandens BL has line stem shape with 5-10 m long. This plant species can be found in places with altitude from 100-1000 m above sea level. According to farmers‟ observation, 26 and 38% interviewed farmers indicated that Erythropalum scandens BL species are usually found in limestone ecosystem respectively, while only 2 % interviewed farmers see these plant in hill lands. Remaining interviewed farmers have no idea about specific land ecosystem that these plants grown (Table 1). These results indicated that Erythropalum scandens BL can grow in diverse land ecosystems, but it is likely that . limestone ecosystem would be more suitable to these plant species. Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Regarding to landscape position, Erythropalum scandens BL was found mostly in lower slope position. 74% interviewed farmers recognized that Erythropalum scandens BL species grow mostly in foot slope and level (catchment areas). Erythropalum scandens BL species found in lower slope position is an indication that this kind of plants requires more fertile soils and high soil moisture. This result is suitable to other research results that indicated Erythropalum scandens BL usually grow in alluvial soils and riverine forests (http://www.efloras.org/). As wild plant species, the growth of these plant species have been affected by various environmental factors in forests such as sunlight regime, moisture, etc. However, the affects of such environment factors on growth of plants vary among species. 85 % interviewed farmer recognized that young seedlings of Erythropalum scandens BL were found in shade light areas under thick forest (Table 3). It is likely that young seedlings of Erythropalum scandens BL require more shade light to grow. It is apparent that deforestation will result in reducing population of Erythropalum scandens BL species. 77(01): 49 - 54 This result is suitable with other observations from farmers when they brought young plants from forest to grow in their gardens. Farmers recognized that plants planting in the gardens grow much slower compared to growth of young plants in forest. This is explained that the young plant Erythropalum scandens BL growing in the forest is always in the shade of the trees‟ canopy, while growing in the garden, plants have received more direct sunlight. Farmers’ perception about values and market access of these plants’ products Erythropalum scandens BL have been widely used by local people as vegetable and medicinal herb. 100% interviewed farmers indicated that they have used these plants for vegetable (Table 4). These species are considered as clean and special vegetable with very good taste. Erythropalum scandens BL can also be good medicinal herb as recognized by 67% of interviewed farmers, respectively. As being high valuable vegetable and medicinal herb, Erythropalum scandens BL and Phyllanthus elegans L. become popular in market not only in rural areas but also in urban areas. Table 1. Farmers‟ perception on growing places in natural forest of native plant species Erythropalum scandens BL and Phyllanthus elegans L Land ecosystem Hill lands Limestone Ecosystem No specific sites Total Number farmers answer yes 1 16 45 62 Percentage 2 26 73 100 Table 2. Farmers‟ perception on plants growing in different slope positions Topography foots lope and level (Catchment‟s areas) Shoulder and upper level No specific place Total Number of farmers agreed 46 12 4 62 Percentage 74 19 6 100 Table 3. Farmers‟ perception of young plants growing in different sunlight Sunlight regime Shade area in thick forest In more direct sunlight areas (e.g. thin forests, barren lands, bush areas after deforestation) Total Number of farmers agreed 52 Percentage 85 9 15 61 100 51 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 49 - 54 harvested Erythropalum scandens BL by cutting young leaves and buds. Its consequence would lead to rapidly reduce plant population in the region and cause to disappear of these species in some places. Recently, some local people have collected these plants from forest and sold to traders in city (table 5). These vegetables are expensive as considering clean and special vegetable with very good taste. Many collectors from city come to villages to buy these vegetables and then sell them in city markets, Consequently, these wild plant species in forest are being over exploited and in some places they are nearly disappeared. Farmers’ perception about harvesting and the scarcity of the plants in natural forest Harvest method is important to conserve natural plant resources. Unsuitable method may cause to unsustainable harvesting. Data in table 6 indicated that most of farmers Data in table 7 present some indicators indicating scarcity of these plant species in the region. Compared to last 7 years and last 5 years, number of people and frequency going to collect these vegetables from forest increased, travelling time to forests to get vegetables was longer, quantity of vegetable collected for one going significant increased. All of these indicators indicated scarcity of these natural resources increasing every year. Table 4. Farmers perception about value of native plant species Erythropalum scandens BL Purpose for use Vegetable Medicinal herb Number of farmers agreed 62 42 Percentage 100 67 Total interviewees 62 - Table 5. Market access of native plant species Erythropalum scandens BL Number of farmer have sold vegetable Place of selling: Number of farmers agreed 26 Percentage 100 7 19 27 73 - Selling for collector - Selling in commune market Table 6. Method of harvest from natural forest Harvest method Harvest young leaves and buds Cutting trees to get young leaves and buds Total Number of farmers agreed Percentage 50 86 8 14 58 100 Table 7. Comparison of number of people, time and frequency to collect native plant species Erythropalum scandens BL and Phyllanthus elegans L from forest Number of farmers involved harvest Travel time to harvest (hour) Frequency to collect vegetable in forest (times per month) Quantity of vegetable collected per travel (bunch of vegetable) 52 7 years ago 5 years ago current year 31 1.8 54 2 58 2.4 3 3.33 4.4 35 32 25 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Farmer planting these native plants Farmers now can recognize the importance of these species for their life, but there are increasing difficulties for collection of plants from natural forests. Many farmers want to grow these native plant species as vegetable crop. 40% of interviewed farmers indicated that they have grown plant species Erythropalum scandens BL respectively in their home garden (Table 8). Farmers have collected seedlings and seeds from forests to grow in their gardens. Results from the farmer survey indicated that more farmers are wanting to grow these plants in their garden as a crop, but without much success due to lack of knowledge and technology. CONCLUSION Erythropalum scandens BL (local name is Bo Khai) are native plant species in Northern mountainous region of Vietnam. These plants were found in limestone and hill land ecosystems, but it is likely that limestone ecosystem would be more suitable than hill land ecosystem. Erythropalum scandens BL was found mostly in foot slope and catchment areas, Young plants of Erythropalum scandens BL grow well in shade light under thick forest. These plant species have been widely used by local people as vegetable and medicinal herb. There is good market access for these vegetables due to being good taste and considering clean vegetables. These plant species have been over exploited, increasing scarcity in the region. Farmers have collected seedlings and seeds from forests to grow in their gardens as new crops but without much success due to lack of knowledge and technology. ACKNOWLEDGEMENTS The author would like to thank for the Seed Fund for Research and Training (SFRT) of the Southeast Asian Regional Center for Graduate Study and Research in Agriculture (SEARCA) for funding. Thanks for Faculty stuff and Graduate students and undergraduate students of Thai Nguyen 77(01): 49 - 54 University of Agriculture and Forestry, as well as Forestry department of Bac Kan province, Vietnam for their help during survey and collection of data. REFERENCE [1]. Castella, J.C. and D.Q. Dang. 2002. Renovation of Mountainous Region: Changes of land Use System and Development Strategy for Farmers in Bac Kan, Vietnam. Agricultural Publishing House, Hanoi. Pp. 149-173 (by Vietnamese). [1]. Chambers R. 1983. Rural Development: Putting the Last First. Longman Inc., London. Pp.75-103. [2]. Eyzaguirre, P. 1988. Farmers knowledge, world science, and the organization of agricultural research systems. In Moock, J.L. and R.E. Rhoades (eds). Diversity, Farmer Knowledge, and Sustainability. Cornell University Press. Pp. 11-34. [3]. Fujisaka, S. 1992. Farmer knowledge and sustainability in rice-farming systems: blending science and indigenous knowledge innovation. In Moock, J.L. and R.E. Rhoades (eds). Diversity, Farmer Knowledge, and Sustainability. Cornell University Press. Pp. 69-84. [4]. Moran, E. 1989. Socioeconomic survey methods. Part 1: The minimum socioeconomic survey. In Anderson, J.M. and J.S.I. Ingram (eds). Tropical Soil Biology and Fertility. A Handbook of Methods. C.A.B. International, Oxon (UK). Pp. 89-100. [5]. Scoones, I. and J. Thompson. 1994. Knowledge, power and agriculture- towards a theoretical understanding. In Scoones, I. and J. Thompson (eds). Beyond Farmer First: Rural People‟s Knowledge, Agricultural Research and Extension Practice. Intermediate Technology Publications Ltd., London. Pp. 29-40. [6]. Vu Van Dung, Jenne De Beer, Pham Xuan Phuong. 2002. Overview of non timber forest products in Vietnam. Document of the Project: Sustainable utilization of non-timer forest products. Project Secretariat. 8-Chuong Duong Do, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam. 53 Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 49 - 54 Table 8. Situation of farmers planting native plant species Erythropalum scandens BL Content Number of farmers have grown plants in gardens (of total 62 interviewees) Planting places: - Home gardens - Forest lands after clearing Sources of seedlings/seeds - Seedlings taken from forest - Collection seeds from forest Number farmers Percentage 25 40 23 2 92 8 20 5 80 20 TÓM TẮT NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC BẢN ĐỊA VỀ CÂY RAU BÕ KHAI ERYTHROPALUM SCANDENS BL TẠI VÙNG NÖI PHÍA BẮC VIỆT NAM Đặng Văn Minh*, Đặng Kim Vui, Nguyễn Chí Hiểu Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên Erythropalum scandens BL (tên địa phƣơng là Bò Khai) là loài cây bản địa có ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Loài cây này từ lâu đã đƣợc ngƣời dân địa phƣơng sử dụng làm rau và thuốc. Tuy nhiên, hiện nay các thông tin cũng nhƣ các nghiên cứu về loại cây này vẫn còn ít và thiếu. Mục tiêu của nghiên cứu này là ứng dụng phƣơng pháp tiếp cận thực địa để tìm hiểu sự sinh trƣởng cũng nhƣ sự phân bố tự nhiên của cây Bò Khai, tìm hiểu giá trị và mức độ khan hiếm của loài Erythropalum scandens BL tại khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu cho thấy cây Bò Khai có mặt ở cả hệ sinh thái núi đá vôi và đồi đất thấp. Erythropalum scandens BL đƣợc phát hiện mọc chủ yếu ở chân đồi và các bờ suối. Cây Erythropalum scandens BL non có thể sinh trƣởng tốt dƣới tán rừng rậm. Nhu cầu của thị trƣờng về loại rau này rất cao do rau có vị thơm ngon và đƣợc coi là rau sạch. Hiện nay rau Bò Khai đang đƣợc khai thác quá mức, làm suy kiệt số lƣợng loài. Ngƣời dân đã tiến hành thu thập hạt rau trong rừng sau đó đem gieo trồng trong vƣờn nhà, tuy nhiên kết quả thu đƣợc rất thấp do thiếu kiến thức cũng nhƣ kỹ thuật trồng rau Bò Khai. Từ khóa: Loài thực vật bản địa, kiến thức bản địa, tăng trưởng tự nhiên và phân bố, sự khan hiếm * Tel:0912334310; Email:dangminh08@gmail.com 54 Nguyễn Hƣng Quang và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 55 - 58 STUDY ON DIFFERENT FEED FORM ON THE PERFORMANCE OF BROILERS CHICKEN Quang N. H.1* and Ebrahimi R2 1 College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University 2 Ramin University of Agriculture and Natural Resources ABSTRACT In this study, it was conducted to evaluate the effects of three various physical diet forms (whole pellet, whole crumble, and mix crumble and pellet) on broilers performance. It was performed by using 150 broilers (male and female mix) from commercial Arbor Acres breed in a completely randomized design with 3 diets by 2 replications (25 chickens per each replication). Daily gain, feed intake and FCR were measured in whole period, furthermore, carcass mean, breast, leg meat, abdominal fat, liver, and gizzard were measured and analyzed at end of the experiment. Body weight was not significant different among the tests. Feed intake was highest in the pellet groups. FCR in the crumble groups was higher than that of the other groups. The results indicate that the physical form of the diet had a significant effect on abdominal fat, which was highest in broilers that fed with pellet diet. Keywords: Particle size, performance, broiler chicken, body weight, FCR INTRODUCTION In poultry diets, cereal grains such as yelow corn, rice, wheat are the primary energy source. Therefore, not only must producers be concerned about the composition of the grain, but also how it is processed so the animal may fully utilize the nutrients. Researches shown that the physical form of diets and feed particle size have a great effect on poultry yield (Behnke and Beyer, 2004) [3]. The effects of particle size on feed quality and quality of poultry has been researched in a number of settings (Behnke, 1994) [2]. Small particle size increases the surface area of the grain, thus allowing for greater interaction with digestive enzymes. It also improves the ease of handling and the mixing characteristics. In poultry diets, the effects of feed particle size appear to be confounded with complexity of the diet as well as further processing such as pelleting or crumblizing. Cabrera (1994) [4] found no effect of feed particle size (1,000 to 400 microns) on growth performance of broiler chicks fed a complex (added tallow, meat and bone meal, and feather meal) diet fed in a crumblized form. In the second trial, feed efficiency was Tel:0985.588.164; Email: hungquangcnty@yahoo.com improved 3 percent by reducing particle size from 1,000 to 500 microns in simple diets fed as a meal form but not in crumblized diets. Therefore, the response to reduced particle (600 to 500 microns) size in broiler chicks appears to be greatest when fed simple (grainsoybean meal) diets in a meal form. Feeding a complex diet in a crumblized form did not appear to require particle size below 1,000 microns. Studies with laying hens suggest no advantages in reducing particle size below 800 microns. In analyzing results of several experiments evaluating the effects of dietary particle size on pig performance, it is clear that the greatest effect of particle size is on feed efficiency. Most researchers would agree that reducing mean particle size of cereal grains to ≤600 µm results in marked improvements in nutrient digestibility and efficiency of growth. Decreasing the particle size of ingredients results in a greater surface area to volume ratio. Smaller particles will have a greater number of contact points within a pellet matrix as compared to larger particles (Behnke, 1994) [2]. Some reports suggest that the effects of feed particle size on performance may be maintained even after pelleting. There appears to be a general consensus that particle sizes of broiler diets 55 Nguyễn Hƣng Quang và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ based on maize or sorghum, optimum particle size should be between 600 and 900 μm. Available data clearly show that grain particle size is more critical in mash diets than in pelleted or crumble diets. Although it has been postulated that finer grinding increases substrate availability for enzymatic digestion, there is evidence that coarser grinding to a more uniform particle size improves the performance of birds maintained on mash diets. This counter-intuitive effect may result from the positive effect of feed particle size on gizzard development. A more developed gizzard is associated with increased grinding activity, resulting in increased gut motility and greater digestion of nutrients. Although grinding to fine particle size is thought to improve pellet quality, it will markedly increase energy consumption during milling. Systematic investigations on the relationships of feed particle size and diet uniformity with bird performance, gut health and pellet quality are warranted if efficiency is to be optimized in respect of the energy expenditure of grinding (Amerah et al, 2007) [1]. In this research we investigated the Effects of feed particle size on the 77(01): 55 - 58 performance and carcass characteristics of broilers. MATERIALS AND METHODS Birds and Diets Experiments were performed using 150 broilers (male and female) from a commercial Arbor acres breed. Starter and grower diets were prepared and manufactured from a local factory. All diets (Table 1) were cornsoybean-based and were formulated to meet or exceed NRC recommendations. All diets and water were provided for ad libitum consumption. Statistical Analysis The birds allocated in a completely randomized design with 3 diets by 2 replications (25 chickens/each replication). The chicken was grown till 42 days. The diets that were used are shown in table (1). The data collected were analyzed by using SAS (SAS Institute, 2002) [8]. The average daily gain and FCR were measured. At the end of the experimental period 4 birds were dissected from each treatment group to allow carcass, leg meat, breast meat, abdominal fat, gizzard and liver weight to be measured. Table 1. Ingredient of diets formulated to NRC (1994) [6] specifications (kg per tone) No 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 5 6 56 Ingredient Yellow corn Soybean meal Rice bran Shell Sodium bicarbonate Salt Fish meal Peanut meal Phosphate Methionine Vitamin - Mineral premix Oil Calcium (%) Phosphorus (%) Methionine (%) Lysine (%) ME (kcal/kg) Crude protein (%) Starter 462 276 120 10 1.5 1 50 50 9 1.8 6 5 Nutrient contents 1.04 0.55 0.83 1.90 2885 22.00 Grower 512 226 120 9 1 50 50 12 1.8 6 5 1.04 0.54 0.78 1.80 2925 20.50 Nguyễn Hƣng Quang và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ RESULTS AND DISCUSSION Effects of Feed Particle Size on Weight Gain Just as presented in Table 2, the average daily gain of chickens fed with pelleted diet was greater than those fed with the crumbled, and mixture of crumble and pellet diets. The effects of the pelleted diet seemed to be through enhancing feed intake and improving FCR (Table 2). These results are support by the work of Salari et al 2006 [7], Van biljohn (2005) [9], Galobart and Moran (2005) [5]. Blobasy et al (2005), which showed that the form of the diet hadn‟t significant effect on weight gain and FCR. Effects of Feed Particle Size on Feed Intake According to the average of daily feed intake (Table 2), we can understand that the daily feed intake in birds that used pellet was higher than that of bird fed other diets. Walstroom et al (1999) [10] reported that crumble diets as compared with mashed diets had most effects on feed intakes of hybrid layers. Increasing feed intake in pelleted diets is due to increased of digestibility, gelatinization of diet elements and increased palatability. On the basis of these results the effect of processing on improving performance of broiler is clear, making it important growers pay attention to the particle size of chicken food stocks because of its influence on FCR and weight gain. 77(01): 55 - 58 Effects of Feed Particle Size on FCR As shown in Table 2, in the whole period, FCR were improved for pellet diet. These results are supported by Salari et a. (2006) [7]; Galobart and Moran (2005) [5]. Van biljan (2005) [9] showed that the Feed particle size did not significantly effect on feed efficiency however caused to improve the FCR. Effects of Feed Particle Size on carcass characteristics As show in Table 3, the texture/physical form of the diet has a significant effects on abdominal fats (p<0.05); however weight of carcass, breast meat, leg meat, liver, gizzard did not differ by feed particle size. Salari et al (2006) [7] has shown that pellet diets had significant effect on an increasing abdominal fats and decreasing femur percent of broiler compared to other diets. CONCLUSION The results of this study indicate that feeding of pellet diet did not have significant effect on body weight, body weight gain, feed intake and feed conversion ration. However it showed the improvement of feed intake and FCR compare to bird feeding with whole crumble or crumble and pellet mixture. The physical form of the diet had a significant effect on abdominal fat, which was highest in broilers that fed with pellet diet. Table 2. Effects of feed particle size on Average Daily Gain, Feed Intake and FCR No Items 1 Daily weight gain (g) 2 Feed intake (g/chicken/day) Feed conversion ration (FCR) 3 (kg feed/kg body weight) Whole pellet 60.86 2.32 105.83 6.43 1.73 0.27 Whole crumble Crumble and pellet mixture 55.52 2.44 58.76 3.8 101.87 7.45 102.78 6.43 1.84 0.18 1.80 0.00 Table 3. Effects of feed particle size on carcass characteristics (g) No 1 2 3 4 6 7 Items Carcass meat Breast meat Leg meat Abdominal fats Liver Gizzard Whole pellet 1242.70 22.50 551.25 27.50 459.76 35.00 50.09a 0.00 70.77 1.00 50.46 0.00 Whole crumble 1509.70 30.00 486.10 5.00 468.08 7.00 38.20b 4.00 63.12 6.20 51.60 2.00 Crumble and pellet mixture 1612.52 15.00 524.10 40.00 496.70 41.00 32.20b 5.50 72.70 2.15 42.03 5.65 * Different description letter in the same row is significantly differed with P<0.05 57 Nguyễn Hƣng Quang và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ REFERENCES [1]. Ameraha1, A.M., V. Ravindrana1 c1, R. G. Lentlea1 and D.G. Thomas, 2007. Feed particle size: Implications on the digestion and performance of poultry. World's Poul. Scie. J, 63:439-455. Doi: 0.1017/S0043933907001560. [2]. Behnke, K. C. 1994. Factors affecting pellet quality. Maryland Nutrition Conference. Dept of Poultry Science and animal Science, collage of Agricultural, University of Maryland, collage Park. [3]. Behnke, K. C. and R. S. Beyer. 2004. Effect of feed processing on broiler performance. Dissertation, Kansas State University, Manhattan. http://www.veterinaria.uchile.cl/publicacion/VIIIp atologia/SEMINARIOS/semi2.pdf [4]. Cabrera, M. R. 1994. Effects of sorghum genotype and particle size on milling characteristics and performance of finishing pigs, broiler chicks, and laying hens. M.S. Thesis. Kansas State University, Manhattan, KS 66506. [5]. Galobart. J. and E. T. Moran. 2005. Influence of stocking density and feed pellet quality on heat stressed broilers from 6 to 8 weeks of age. International Journal of Poultry Sci. 4(2): 55-59. 77(01): 55 - 58 ISSN 1682-8356. http://www.pjbs.org/ijps/fin307.pdf [6]. National Research Council. 1994. Nutrient Requirements of Poultry. 9th rev. ed. National Academy Press, Washington, DC. ISBN-13: 9780-309-04892-7. [7]. Salari, S., H, Kermanshahi and H. N. Moghadam. 2006. Effect of sodium bentonite and comparison of pellet vs. mash on performance of broiler chickens. Int. J. Poul. Sci. 5 (1): 31-34. ISSN 1682-8356. 198.63.53.154 [8]. SAS Institute. 2002. Statistical Analysis System Proprietary Software. Release 8.1. SAS Inst.Inc., Cary, NC. [9]. Van biljon, J. N. 2005. The effect of feed processing and feed texture on body weight, feed conversion and mortality in male broiler. Department of production Animal and community Health faculty of Veterinary Science University of Pretoria. Dissertation of University of Pretoria. http://en.scientificcommons.org/45542782 [10]. Wahlström, A., K. Elwinger and S. Thomke. 1999. Total tract and ileal nutrient digestibility of a diet fed as mash or crumble pellets to two laying hybrids. Animal feed Sci and Tech. 77: 229-239. DOI: 10.1016/S0377-8401(98)00255-7. TÓM TẮT NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC DẠNG THỨC ĂN ĐẾN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA GÀ THỊT Nguyễn Hƣng Quang1 và Ebrahimi R2 1 Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên Trường Đại học Nông nghiệp và các nguồn tự nhiên Ramin 2 Nghiên cứu đƣợc tiến hành nhằm đánh giá ảnh hƣởng của ba loại hình thức ăn có cấu trúc khác nhau (thức ăn viên, thức ăn mảnh vụn và hỗn hợp thức ăn viên và thức ăn mảnh vụn) đến khả năng sản xuất thịt của gà broiler. Thí nghiệm đƣợc tiến hành trên 150 gà thịt broiler giống AA lẫn trống mái chia thành 3 lô thí nghiệm với 2 lần lặp lại (25 gà/ô thí nghiệm lặp lại). Các chỉ số đƣợc tiến hành theo dõi đánh giá ảnh hƣởng của 3 loại hình thức ăn: sinh trƣởng tích lũy, tăng khối lƣợng, tiêu thụ thức ăn, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng, khối lƣợng và tỷ lệ thịt xẻ, thịt ngực, thịt đùi, mỡ bụng, gan và dạ dày cơ. Kết quả chỉ ra rằng khối lƣợng sinh trƣởng tích lũy của các lô thí nghiệm là không sai khác thống kê. Gà ở lô thí nghiệm sử dụng thức ăn viên có tiêu thụ thức ăn cao, tuy nhiên tiêu tốn thức ăn ở gà lô thí nghiệm sử dụng thức ăn mảnh lại cao hơn 2 lô còn lại. Kết quả cũng chỉ ra rằng gà sử dụng thức ăn viên có khối lƣợng mỡ bụng cao nhất và sai khác có ý nghĩa thống kê so với 2 lô thí nghiệm sử dụng thức ăn mảnh vụn và hỗn hợp mảnh vụn với thức ăn viên. Từ khóa: Kích cỡ thức ăn, chỉ số sinh trưởng, gà broiler, sinh trưởng tích lũy, tiêu tốn thức ăn Tel:0985.588.164; Email: hungquangcnty@yahoo.com 58 Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 59 - 64 NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA GIỐNG, MẬT ĐỘ BÃI THẢ ĐẾN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT THỊT CỦA GÀ BÁN NUÔI NHỐT Ở NÔNG HỘ Nguyễn Thị Thuý Mỵ1*, Trần Thanh Vân2, Nguyễn Tiến Đạt1 1 Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên; 2Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Nghiên cứu đƣợc tiến hành ở nông hộ xã Quyết Thắng và Phúc Xuân, thành phố Thái Nguyên trên 900 con gà lai F1 (Ri x Sasso) và gà địa phƣơng, với 3 mật độ bãi thả khác nhau: 2, 3 và 4 m2/con. Kết quả cho thấy: Mật độ bãi chăn thả khác nhau có ảnh hƣởng đến khả năng của gà F1 (Ri x Sasso) và gà địa phƣơng. Ở mật độ bãi thả 3 m2/con, hai loại gà đều cho kết quả tốt nhất, các chỉ tiêu đều cho kết quả tốt hơn so với mật độ bãi thả 2 và 4 m2/con. Giống gà khác nhau có ảnh hƣởng rõ rệt đến kết quả, gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) cho kết quả sức sản xuất thịt tốt hơn và giá chi phí trực tiếp cho kg gà thịt thấp hơn so với gà địa phƣơng ở tất cả các mật độ bãi thả. Nông hộ nên sử dụng gà lai có ½ máu gà nhập nội với mật độ bãi thả 3 m2/con nuôi gà thịt bán chăn thả cho kết quả tốt. Từ khóa: bán nuôi nhốt, mật độ bãi thả, gà lai, gà địa phương ĐẶT VẤN ĐỀ Chăn nuôi gà an toàn sinh học là áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo cho đàn gà khỏe mạnh, không dịch bệnh. Hiện nay, chăn nuôi gà thả vƣờn đang rất phát triển ở các địa phƣơng. Theo Trần Thanh Vân và cs (2002) [7], mật độ bãi thả thích hợp cho gà thịt lông màu nhập nội là 3m2/con. Tuy nhiên, mật độ bãi thả thích hợp với gà lai và gà địa phƣơng vẫn chƣa đƣợc xác định. Để nghiên cứu ảnh hƣởng của loại gà và mật độ bãi chăn thả đến sức sản xuất thịt của phƣơng thức nuôi gà bán chăn thả, làm cơ sở khuyến cáo và định hƣớng kỹ thuật cho ngƣời chăn nuôi gà, góp phần vào xây dựng mô hình chăn nuôi gà an toàn sinh học tại Thái Nguyên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tƣợng, thời gian và địa điểm nghiên cứu Gà địa phƣơng và gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) nuôi bán chăn thả với mật độ bãi thả lần lƣợt là 2, 3, 4 m2/con tại nông hộ của 2 xã Quyết Thắng, Phúc Xuân, TP Thái Nguyên. Thời gian từ tháng 10/2009 đến tháng 10/2010. Tel: 0912 28 28 16; Email: tranthanhvantnu@gmail.com Nội dung, phƣơng pháp và các chỉ tiêu nghiên cứu * Nội dung nghiên cứu Ảnh hƣởng của mật độ bãi thả khác nhau đến khả năng sản xuất thịt của gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) và gà địa phƣơng nuôi trong nông hộ tại 2 xã Quyết Thắng, Phúc Xuân. * Phương pháp nghiên cứu Thí nghiệm đƣợc bố trí theo phƣơng pháp phân lô so sánh, đảm bảo đồng đều về các yếu tố, chỉ khác nhau về đối tƣợng gà và mật độ bãi thả. * Các chỉ tiêu theo dõi - Tỷ lệ nuôi sống; Sinh trƣởng tích luỹ, sinh trƣởng tuyệt đối; Hệ số chuyển đổi thức ăn; Chỉ số sản xuất và giá chi phí trực tiếp cho 1 kg tăng. Phƣơng pháp xử lý số liệu Số liệu thí nghiệm đƣợc xử lý theo phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi của Nguyễn Văn Thiện và cs, 2002 [6] và phần mềm Minitab. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm Gà thí nghiệm ở các lô đều có tỷ lệ nuôi sống cao, dao động từ 94,67 đến 96,67 %. Tỷ lệ nuôi sống giữa các lô thí nghiệm là tƣơng đƣơng. Từ tuần 7 đến 12, không có gà chết ở tất cả các lô thí nghiệm. Tính chung cho 3 mật độ, tỷ lệ nuôi sống của gà lai và gà địa phƣơng sai khác không rõ rệt. 59 Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 59 - 64 Sơ đồ bố trí thí nghiệm Lô thí nghiệm Lô thí nghiệm Lô đối chứng Lô I Lô II Lô III Lô IV Lô V Lô VI gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) gà địa phƣơng 50 50 50 50 50 50 3 3 3 3 3 3 150 150 150 150 150 150 1 – 12 tuần tuổi Bán chăn thả Nhốt hoàn toàn Thả vƣờn ban ngày 8 2 3 4 2 3 4 Diễn giải Loại gà Số lƣợng (con) Số lần lập lại Tổng số gà thí nghiệm Thời gian TN Phƣơng thức nuôi + 1- 4 tuần tuổi + 5 – 12 tuần tuổi - Chuồng nuôi (gà/m2) - Bãi chăn (m2/gà) Bảng 1. Tỷ lệ nuôi sống cộng dồn của gà thí nghiệm (%) F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Tuần tuổi 3 7 8 9 10 11 12 Lô I X m Lô II x 96,00 ± 1,15 95,33 ± 0,67 95,33 ± 0,67 95,33 ± 0,67 95,33 ± 0,67 95,33 ± 0,67 95,33a ± 0,67 X m Gà địa phƣơng Lô III x 96,67 ± 1,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67a± 0,67 X m Lô IV x 96,00 ± 0,00 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67a± 0,67 X m Lô V x 96,67 ± 0,67 96,00 ± 1,15 96,00 ± 1,15 96,00 ± 1,15 96,00 ± 1,15 96,00 ± 1,15 96,00a± 1,15 X m Lô VI x 97,33 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67a± 0,67 X m x 97,33 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67 96,67a± 0,67 *Ghi chú: Theo hàng ngang những số mang các chữ cái giống nhau thì sai khác giữa chúng không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). So sánh với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs, 2009 [4] trên gà Sasso bán nuôi nhốt ở vụ Xuân – Hè và vụ Thu – Đông, có tỷ lệ nuôi sống dao động 96,89 % 97,33 % thì kết quả của chúng tôi thấp hơn không đáng kể. Điều này chứng tỏ, mật độ bãi thả khác nhau không ảnh hƣởng rõ rệt tới tỷ lệ nuôi sống của cả gà địa phƣơng và gà lai. Sinh trƣởng của gà thí nghiệm * Sinh trưởng tích luỹ Kết quả thể hiện ở bảng 2 cho thấy: Sinh trƣởng tích luỹ của gà thí nghiệm tăng dần qua các tuần tuổi, ở tất cả các lô thí nghiệm với độ đồng đều cao. Tại thời điểm 12 tuần tuổi, khối lƣợng gà thí nghiệm cao nhất ở lô II là 2022,1 g, tiếp đến là lô I 1984,8 g, và thấp nhất ở lô IV, 1231,1 g. 60 Kết quả thí nghiệm cho thấy: Trong cùng một mật độ bãi thả, sinh trƣởng tích luỹ giữa gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) luôn cao hơn so với gà địa phƣơng. Tính chung, khối lƣợng gà lai (1990,1 g) cao hơn gà địa phƣơng (1268,3 g), sự sai khác này có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Ở gà lai, khối lƣợng lô II cao nhất, thấp nhất ở lô III, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Lô I và lô II sai khác không có ý nghĩa thống kê với P>0,05. Ở gà địa phƣơng, khối lƣợng lô V cao nhất, thấp nhất là lô IV với sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Lô V và lô VI có sai khác không có ý nghĩa thống kê với P>0,05. Nhƣ vậy, mật độ bãi thả khác nhau đã ảnh hƣởng tới sinh trƣởng của gà thí nghiệm. Sinh trƣởng tích lũy của gà lai và gà địa phƣơng cho kết quả tốt nhất ở mật độ bãi thả 3m2/con. So sánh với nghiên cứu của Lê Huy Liễu, 2004 [3], nghiên cứu trên gà Ri x Lƣơng Phƣợng và (Ri x kabir) thì kết quả của chúng tôi cao hơn. Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 59 - 64 2002 [7] trên gà Sasso ở mật độ bãi thả 3m2/con cho kết quả sinh trƣởng tốt nhất. * Sinh trưởng tuyệt đối Bảng 3 cho thấy cùng mật độ bãi thả, sinh trƣởng tuyệt đối trung bình từ 0-12 tuần tuổi của lô I là 23,17 g/con/ngày cao hơn lô IV là 14,29 g/con/ngày, lô II là 23,64 g/con/ngày cao hơn lô V là 15,15 g/con/ngày, lô III là 22,93 g/con/ngày cao hơn lô VI là 14,74g/con/ngày. So sánh với kết quả của Nguyễn Huy Đạt, 2001 [2] nghiên cứu trên gà ¾ Lƣơng Phƣợng và ¼ Ri nuôi bán chăn thả. Nguyễn Văn Đại và cộng sự 2001 [1] nghiên cứu trên gà lai (Mía x Kabir), đều có kết quả tƣơng đƣơng với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tƣơng đƣơng với kết quả nghiên cứu của Bế Kim Thanh, 2002 [5]; của tác giả Trần Thanh Vân Bảng 2. Sinh trƣởng tích lũy của gà thí nghiệm (gam) (n = 3 đàn) Gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) TT Lô I X m Nở 4 10 11 12 Lô II Lô III x X m x X m 38,17 ± 0,07 419,15 ± 4,07 1625,0 ± 5,83 1814,4 ± 6,03 1984,8ab ± 7,70 38,16 ± 0,06 418,89 ± 1,83 1657,7 ± 8,30 1849,8 ± 8,56 2022,1a ± 11,8 38,26 ± 0,28 419,02 ± 3,08 1600,1 ± 6,66 1787,1 ± 6,15 1963,4b ± 7,79 x Gà Địa phƣơng Trung bình Lô IV X m X m x 38,20 ± 0,03 419,02 ± 0,08 1627,6 ± 16,7 1817,1 ± 18,10 1990,1*a ±17,20 Lô V Trung bình Lô VI x X m 31,25 ± 0,28 238,21 ± 2,99 938,74 ± 6,16 1089,0 ± 5,32 1231,1d ± 5,17 30,70 ± 0,38 235,46 ± 2,78 988,92 ± 3,40 1143,8 ± 5,93 1302,6c ± 8,37 X m x X m x 31,08 ± 0,27 238,90 ± 4,16 967,10 ± 5,02 1123,1 ± 7,76 1271,2cd ± 14,70 x 31,01 ± 0,16 237,52 ± 1,05 964,90 ± 14,5 1118,6 ± 16,0 1268,3*b ± 20,70 * Ghi chú: Theo hàng ngang (trừ 2 cột trung bình so sánh riêng với nhau) những số mang các chữ cái giống nhau thì sai khác giữa chúng không ý nghĩa thống kê. Bảng 3. Sinh trƣởng tuyệt đối của gà thí nghiệm (g/con/ngày) (n = 3 đàn) Gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Mật độ bãi thả Lô I X m Lô II x X m Lô III x X m x Gà Địa phƣơng Trung bình Lô IV X m X m x Lô V x X m Trung bình Lô VI x X m x X m x 8-9 29,78 ± 0,51 31,07 ± 0,30 28,57 ± 0,12 29,80 ± 0,72 17,54 ± 0,19 21,20 ± 0,32 19,62 ± 0,49 19,45 ± 1,06 9-10 28,64 ± 0,38 30,17 ± 0,60 28,00 ± 0,13 28,93 ± 0,64 18,96 ± 0,84 21,28 ± 0,77 20,20 ± 0,42 20,14 ± 0,67 10-11 27,06 ± 0,04 27,44 ± 0,17 26,70 ± 0,27 27,07 ± 0,21 21,46 ± 0,35 22,16 ± 0,64 22,29 ± 0,65 21,97 ± 0,26 11-12 24,34 ± 0,24 24,62 ± 0,55 25,19 ± 0,47 24,71 ±0,25 20,30 ± 0,19 22,82 ± 0,86 21,16 ± 1,31 21,43 ± 0,74 0-12 23,17ab ± 0,10 23,62a ± 0,14 22,93b ± 0,09 23,24*a ± 0,20 14,29d ± 0,06 15,15c ± 0,11 14,76cd ± 0,17 14,74*b ± 0,25 * Ghi chú: Theo hàng ngang (trừ hai cột trung bình so sánh riêng) những số mang các chữ cái giống nhau thì sai khác giữa chúng không có ý nghĩa thống kê. 61 Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Tính chung, sinh trƣởng tuyệt đối của gà lai (23,24 g/con/ngày) cao hơn gà địa phƣơng (14,74 g/con/ngày), sự sai khác có ý nghĩa thống kê với P<0,001. Ở gà lai, sinh trƣởng tuyệt đối lô II cao nhất, thấp nhất là lô III. Lô I sai khác không có ý nghĩa thống kê so với lô II và lô III (P>0,05). Ở gà địa phƣơng, sinh trƣởng tuyệt đối lô IV cao nhất, thấp nhất là lô VI. Lô VI sai khác không có ý nghĩa thống kê so với lô IV và lô V (P>0,05). Lô V và lô IV sai khác có ý nghĩa thống kê với P<0,05). Kết quả trên cho thấy, gà lai và gà địa phƣơng cho kết quả sinh trƣởng tốt nhất ở mật độ bãi thả 3m2/con. Khả năng chuyển hoá thức ăn Qua bảng 4 cho thấy tiêu tốn thức ăn (TTTA)/kg tăng khối lƣợng của gà thí nghiệm tăng dần qua các tuần tuổi và có sự khác nhau giữa các lô. Trong cùng mật độ bãi thả tại thời điểm 12 tuần tuổi, TTTA của lô I là 2,92 kg thấp hơn lô IV là 3,98 kg, lô II thấp hơn lô I là 3,60 kg, lô III là 3,00 kg thấp hơn lô VI là 3,69 77(01): 59 - 64 kg. Tính chung, TTTA của gà lai (2,89 kg) thấp hơn so với gà địa phƣơng (3,76 kg), sự sai khác này có ý nghĩa thống kê với P<0,01. Ở gà lai, TTTA của lô II thấp nhất, cao nhất là lô III. Sự sai khác giữa các lô không có ý nghĩa thống kê với P>0,05. Ở gà địa phƣơng, TTTA của lô V thấp nhất, lô IV cao nhất. Lô V và lô VI sai khác so với lô IV có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Lô V và lô VI sai khác không có ý nghĩa thống kê với P>0,05. Kết quả trên cho thấy, ở mật độ bãi thả 3m2/con, TTTA của cả gà lai và gà địa phƣơng đều thấp hơn so với các mật độ bãi thả còn lại. Chỉ số sản xuất Kết quả bảng 5 cho thấy, từ 8 đến 12 tuần tuổi chỉ số sản xuất của gà lai cao hơn hẳn gà địa phƣơng. Ở gà lai, chỉ số sản xuất của lô II là 85,18 cao hơn so với lô I là 79,76 và lô III là 79,40, sự sai khác này có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Bảng 4. Tiêu tốn thức ăn cộng dồn của gà thí nghiệm (kg) (n = 3 đàn) Gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Gà địa phƣơng Tuần tuổi Lô I Lô II Lô III Trung bình Lô IV Lô V Lô VI Trung bình 8 9 10 11 12 2,39 2,50 2,61 2,76 2,92c 2,28 2,37 2,47 2,60 2,75c 2,44 2,56 2,70 2,84 3,00c 2,37 2,48 2,59 2,73 2,89 3,55 3,66 3,81 3,87 3,98a 3,29 3,36 3,44 3,52 3,60b 3,34 3,43 3,52 3,58 3,69b 3,39 3,49 3,59 3,66 3,76 * Ghi chú: Theo hàng ngang (trừ 2 cột trung bình so sánh riêng với nhau) những số mang các chữ cái giống nhau thì sai khác giữa chúng không ý nghĩa thống kê. Bảng 5. Chỉ số sản xuất của gà thí nghiệm (n = 3 đàn) Lô TN 8 Gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Lô I Lô II Lô III b a 117,54 125,71 111,86b Lô IV 49,87c 9 110,11b 125,18a 105,69b 46,81d 61,13c 56,64c 10 103,64b 116,53a 98,28b 45,80d 59,97c 55,96c 11 92,69b 100,64a 88,96c 54,50d 61,14d 62,27d 12 79,76b 85,18 a 79,40b 48,60d 61,40c 56,88c Tuần tuổi Gà Địa phƣơng Lô V Lô VI c 49,00 48,70c * Ghi chú: Theo hàng ngang những số mang các chữ cái giống nhau thì sai khác giữa chúng không có sai khác trong thống kê. 62 Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Ở gà địa phƣơng, chỉ số sản xuất của lô V là 61,40 cao hơn so với lô IV là 48,60 và lô VI là 56,88. Điều này cho thấy, ở mật độ bãi thả 3m2/con chỉ số sản xuất của gà lai và gà địa phƣơng cho kết quả tốt hơn so với mật độ 2 và 4m2/con. Sơ bộ tính giá chi phí trực tiếp Qua bảng 6 cho thấy, chi phí trực tiếp cho 1 kg gà xuất bán của gà lai thấp hơn so với gà địa phƣơng. Tính chung, chi phí cho 1 kg gà xuất bán của gà lai là 28489,3 đ/kg, gà địa phƣơng là 38701,2 đ/kg. Ở cả gà lai và gà địa phƣơng, chi phí cho 1 kg gà xuất bán ở mật độ 3m2/con thấp hơn so với mật độ 2 và 4m2/con. Ở mật độ bãi thả 3m2/con, chi phí/kg gà xuất bán của gà lai là 27245,4 đ/kg, ở gà địa phƣơng là 37189,4 đ/kg. KẾT LUẬN Mật độ bãi chăn thả khác nhau có ảnh hƣởng đến khả năng của gà F1 (Ri x Sasso) và gà địa phƣơng. Ở mật độ bãi thả 3 m2/con, hai loại gà đều cho kết quả tốt nhất, các chỉ tiêu đều cho kết quả tốt hơn so với mật độ bãi thả 2 và 4 m2/con; tại thời điểm 12 tuần tuổi, khối lƣợng 77(01): 59 - 64 bình quân của gà lai là 2022,1 g và gà địa phƣơng là 1302,6 g; sinh trƣởng tuyệt đối của gà lai là 23,62 g/con/ngày và gà địa phƣơng là 15,15 g/con/ngày; TTTA của gà lai là 2,75 kg/kg tăng khối lƣợng và gà địa phƣơng là 3,60 kg/kg tăng khối lƣợng; chỉ số sản xuất của gà lai là 85,18 và gà địa phƣơng là 61,40; chi phí trực tiếp/kg gà thịt của gà lai là 27245,4 đ/kg và gà địa phƣơng là 37189,4 đ/kg. Giống gà khác nhau có ảnh hƣởng rõ rệt đến kết quả, gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) cho kết quả sức sản xuất thịt tốt hơn và giá chi phí trực tiếp cho kg gà thịt thấp hơn so với gà địa phƣơng ở tất cả các mật độ bãi thả: đến 12 tuần, khối lƣợng là 1990,1 g của gà lai so với 1268,3 g của gà địa phƣơng; sinh trƣởng tuyệt đối tƣơng ứng là 23,24 g/con/ngày và 14,74 g/con/ngày; hệ số chuyển hoá thức ăn là 2,89 và 3,76; Chỉ số sản xuất là 81,45 và 55,63; Giá chi phí trực tiếp là 28.489,3 đ/kg gà thịt và 38.701,2 đ/kg gà thịt. Nông hộ nên sử dụng gà lai có ½ máu gà nhập nội với mật độ bãi thả 3 m2/con nuôi gà thịt bán chăn thả cho kết quả tốt. Bảng 6. Sơ bộ tính giá chi phí trực tiếp (đ/kg gà thịt) (n = 3 đàn) F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Diễn giải Lô I Lô II Gà Địa phƣơng Lô III Tính chung Lô IV Lô V Lô VI Tính chung Phần chi phí trực tiếp (đ/kg gà) Chi phí giống 3459,9 3372,4 3497,7 3443,3 6078,8 5689,4 5840,4 5869,5 Chi phí thức ăn 24417 22973 25049 24146 33830 30600 31365 31932 Chi phí thuốc TY 500 500 500 500 500 500 500 500 Chi phí khác 400 400 400 400 400 400 400 400 Tổng chi (đ/kg) 28776,9 27245,4 29446,7 28489,3 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Văn Đại, Trần Thanh Vân, Trần Long, Đặng Đình Hanh (2001), “Đặc điểm ngoại hình và khả năng sinh trƣởng, cho thịt của gà lai F1 (Trống Mía x Mái Kabir) nuôi nhốt và bán chăn thả tại Thái Nguyên”, Tạp chí Chăn nuôi số 5 – 2001, trang 9-13. 40808,8 37189,4 38105,4 38701,2 [2]. Nguyễn Huy Đạt, Hồ Xuân Tùng và cộng tác viên (2001), Nghiên cứu lai giữa gà Lương Phượng với gà Ri nhằm chọn tạo ra giống gà thả vườn phục vụ chăn nuôi nông hộ, Báo cáo khoa học, Viện Chăn nuôi, tr.106-120. [3]. Lê Huy Liễu (2004), “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, cho thịt của gà lai F1 (♂ Lương Phượng x ♀Ri) và F1( ♂Kabir x♀ Ri) nuôi thả 63 Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ vườn tại Thái Nguyên”, Luận án tiến sỹ nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên. [4]. Nguyễn Thị Thúy Mỵ, Hoàng Thị Hồng Nhung, Nguyễn Thị Hải, Trần Thanh Vân (2009), "Nghiên cứu ảnh hƣởng của mùa vụ và phƣơng thức nuôi tới khả năng sinh trƣởng và cho thịt của gà thƣơng phẩm Sasso", Tạp chí Khoa học và Công nghệ số 1 (49) năm 2009, trang 90-95. [5]. Bế Kim Thanh (2002), “Xác định mật độ bãi thả tối ưu cho gà thịt thương phẩm lông màu Sasso, Lương Phượng nuôi bán chăn thả vụ hè – thu tại Thái Nguyên”, Luận văn Thạc sỹ khoa học 77(01): 59 - 64 Nông nghiệp, trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, trang 50-52. [6]. Nguyễn Văn Thiện (2008), Thống kê sinh vật học ứng dụng trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [7]. Trần Thanh Vân (2002), “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp giống, kỹ thuật đến khả năng sản xuất thịt của gà lông màu Kabir, Lương Phượng, Sasso nuôi bán chăn thả tại Thái Nguyên’’, Báo cáo đề tài cấp Bộ B 2001- 02-10, trang 50-55. SUMMARY EFFECT OF BREEDS, GARDEN DENSITIES ON PERFORMANCE OF CHICKEN RAISING IN SEMIINTENSIVE SYSTEM AT HOUSE HOLD Nguyen Thi Thuy My1, Tran Thanh Van2, Nguyen Tien Dat1 1 College of Agriculture and Forestry - TNU 2 Thainguyen University The trial was carried out at house holds in Quyet Thang & Phuc Xuan Communes, Thai Nguyen city on 900 crossed breed and local breed chickens raising in semiintensive system with variety of garden density of 2, 3 and 4 square meters per chicken. Garden densities per chicken had influenced on performance of both crossed breed and local breed chickens raising semi intensive system. Garden density of 3 square meters per chicken showed the best results which is was, better than that of 2 and 4 square meters per chicken. Chicken breeds had influenced on performance, crossed breed F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) there were better results of producing meat, direct cost of producing live chicken meat was lower when compare to local breed at all level garden densities. Households should raise crossed beed chicken with ½ blood of imported breed and at 3 square metters garden per chicken in semiintensive system. Keywords: Semi intensive system, chicken density on garden, local breed, crossed breed. Tel: 0912 28 28 16; Email: tranthanhvantnu@gmail.com 64 Trần Thị Hoan và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 65 - 68 NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA KHOẢNG CÁCH TRỒNG SẮN LẤY LÁ ĐẾN SẢN LƢỢNG LÁ SẮN VÀ GIÁ THÀNH CỦA BỘT LÁ SẮN Trần Thị Hoan*, Từ Trung Kiên Trường Đại học Nông lâm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Chúng tôi đã nghiên cứu trồng sắn lấy lá để làm thức ăn cho vật nuôi với 3 khoảng cách trồng khác nhau là 1,0m x 0,4m; 0,8m x 0,4m; 0,6m x 0,4m. Kết quả nghiên cứu cho thấy: năng suất lá sắn trung bình đạt cao nhất ở khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) là 52,66 tạ/ha/lứa, của khoảng cách trồng (0,6m x 0,4 m) đứng hàng thứ hai, đạt 42,74 tạ/ha/lứa, khoảng cách trồng (1,0m x 0,4m) có năng suất thấp hơn cả, đạt 41,11 tạ /ha/lứa. Về sản lƣợng lá tƣơi, vật chất khô, protein khoảng cách trồng 0,8m x 0,4m cũng đạt cao nhất (tấn/ha/2 năm), lần lƣợt là: 31,594; 8,239; 1,840, và có chi phí sản xuất cho 1kg bột lá sắn thấp nhất : 3,871 đồng. Từ khóa: Khoảng cách, trồng, sắn lấy lá, sản lượng, bột lá sắn ĐẶT VẤN ĐỀ Ở các nƣớc phát triển, bột lá thực vật là một thành phần gần nhƣ không thể thiếu đƣợc trong thức ăn hỗn hợp của vật nuôi. Hiện nay, ở Việt Nam bột lá thực vật chƣa đƣợc sản xuất để đƣa vào thức ăn hỗn hợp. Trong tƣơng lai nƣớc ta cũng phải sản xuất bột lá thực vật để đƣa vào thức ăn hỗn hợp nhƣ các nƣớc phát triển. Trong các loại cây trồng, chúng tôi thấy cây sắn có triển vọng để sản xuất bột lá. Cây sắn có sản lƣợng lá lớn, tỷ lệ protein trong lá khá cao rất thích hợp cho việc chế biến thành bột lá để phối trộn vào thức ăn hỗn hợp của gia súc và gia cầm. Vì vậy, chúng tôi dự kiến tiến hành một số thí nghiệm về cây sắn với mục tiêu là sản xuất bột lá sắn. Trong thí nghiệm này chúng tôi nghiên cứu ảnh hƣởng của khoảng cách trồng sắn lấy lá đến sản lƣợng lá và giá thành của bột lá sắn. NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu khoảng cách trồng sắn lấy lá khác nhau để tìm ra khoảng cách thích hợp, có sản lƣợng cao và giá thành sản phẩm thấp. Đối tƣợng, địa điểm, thời gian nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu: Giống sắn KM94 - Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Thực hành Thực nghiệm, trƣờng Đại học Nông lâm Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. - Thời gian nghiên cứu: Năm 2009 - 2010 Tel: 0988.520 086; Email: tranthihoan_tuaf@yahoo.com.vn Phƣơng pháp nghiên cứu Thí nghiệm với ba khoảng cách trồng: 1,0 m x 0,4m (hàng cách hàng 1,0m, cây cách cây 0,4m); 0,8m x 0,4m và 0,6m x 0,4 m. Mỗi khoảng cách trồng đƣợc bố trí trên diện tích 30m2 và đƣợc lặp lại 3 lần, bố trí thí nghiệm theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn. Liều lƣợng bón phân cho 1ha/1 năm là: Phân chuồng: 10 tấn, đạm là: 120 kg N, lân: 40 kg P2O5, Kali: 80 kg K2O. Năm thứ hai bón cùng liều lƣợng nhƣ trên. Các chỉ tiêu và phƣơng pháp theo dõi - Thành phần dinh dƣỡng của đất thí nghiệm và khí tƣợng khu vực nghiên cứu (tỉnh Thái Nguyên). - Năng suất và sản lƣợng lá sắn, thành phần dinh dƣỡng của lá sắn và giá thành sản phẩm. - Phƣơng pháp theo dõi các chỉ tiêu là các phƣơng pháp thông dụng đƣợc sử dụng trong nghiên cứu trồng trọt và chăn nuôi. * Phương pháp xử lý kết quả: Các số liệu thu thập đƣợc xử lý bằng phƣơng pháp thí nghiệm trong chăn nuôi của Nguyễn Văn Thiện (2000) [3] và trên phần mềm thống kê Minitab 14. KẾT QUẢ THẢO LUẬN Khí tƣợng khu vực thí nghiệm Khu vực thí nghiệm (tỉnh Thái Nguyên) có nhiệt độ trung bình năm là: 24,2oC, ẩm độ trung bình năm là 80,2%, lƣợng mƣa trung bình năm là: 1700 mm. Nhƣ vậy, khí tƣợng 65 Trần Thị Hoan và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ của khu vực thí nghiệm hoàn toàn phù hợp với sự sinh trƣởng của cây sắn trồng sán lấy củ. Tuy nhiên, thời gian cuối năm nhiệt độ và lƣợng mƣa thƣờng thấp, không hoàn toàn phù hợp với trồng sắn để lấy lá. Thành phần dinh dƣỡng đất thí nghiệm Đất khu vực thí nghiệm có pH là 4,51, Nitơ tổng số là 0,03 %; P2O5 tổng số: 0,06%, P2O5 dễ tiêu là 11,81 mg/100g, K2O tổng số 0,14 %; K2O dễ tiêu : 3,52 mg/100g; OM: 2,20 %. Theo Từ Quang Hiển và CS (2002) [1] thì đây là loại đất chua vừa và nghèo dinh dƣỡng, vì vậy để cây trồng có năng suất cao cần phải bón thêm phân cho cây trồng. Năng suất lá sắn Chúng tôi đã theo dõi năng suất lá sắn liên tục trong hai năm (2009 -2010), mỗi năm thu hoạch đƣợc 3 lứa. Kết quả về năng suất lá của từng lứa đƣợc tính trung bình từ hai năm, xem tại bảng 1. Số liệu của bảng 1 cho thấy: Năng suất lá sắn của lứa 1 cao hơn lứa 2, năng suất lứa thứ 3 chỉ bằng 30% của lứa đầu và khoảng 50% của lứa thứ 2. Sở dĩ năng suất lứa thứ 3 thấp, vì thời kỳ này lƣợng mƣa thấp, các chất dinh dƣỡng cũng cạn kiệt dần do cung cấp cho hai lứa đầu. Năng suất lá sắn trung bình đạt cao nhất ở khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) là 52,66 tạ/ha/lứa, của khoảng cách trồng (0,6mx0,4m) 77(01): 65 - 68 đứng hàng thứ hai, đạt 42,74 tạ/ha/lứa, khoảng cách trồng (1,0m x 0,4m) có năng suất thấp hơn cả, đạt 41,11 tạ /ha/lứa. Năng suất trung bình của khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) có sự sai khác rõ rệt so với hai khoảng cách trồng còn lại với P< 0,05, năng suất của hai khoảng cách trồng (1,0m x 0,4 m) và (0,6m x 0,4m) không có sự sai khác rõ rệt với p>0,05. Thành phần hóa học của lá sắn Lá sắn có thành phần học nhƣ sau: 26,08 % VCK, trong vật chất khô có tỷ lệ protein là: 22,70 %, lipit: 7,92 %, xơ: 12,21 %, dẫn xuất không chứa ni tơ: 47,40 %, khoáng tổng số: 7,49 %. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Lộc và CS (2008) [2], Y. Froehlich và CS. (2001) [4] Tỷ lệ protein của lá sắn khá cao, tỷ lệ này chỉ thua kém so với bột lá keo giậu (26-30%), còn lớn hơn so với hầu hết các lá họ đậu khác. Vì vậy, cũng có thể sử dụng bột lá sắn nhƣ một nguồn cung cấp protein cho vật nuôi. Sản lƣợng lá sắn Căn cứ vào năng suất lá sắn của từng lứa, tỷ lệ vật chất khô và protein trong lá sắn chúng tôi đã tính đƣợc sản lƣợng lá sắn tƣơi, vật chất khô, protein của 1ha trong hai năm và đƣợc trình bày tại bảng 2. Bảng 1. Năng suất lá sắn trung bình theo các lứa thu hoạch (tạ/ha/lứa) Lứa thu hoạch 1,0 x 0,4 (X ± Lứa 1 Lứa 2 Lứa 3 NSTB mX ) 57,03 ± 0,96 44,01± 0,85 22,29 ± 0,60 41,11 Khoảng cách trồng và năng suất 0,8 x 0,4 (X ± mX ) 67,66± 1,68 59,11± 1,35 31,20± 1,26 52,66 0,6 x 0,4 (X ± mX ) 57,81± 1,47 47,40± 1,08 23,02± 0,34 42,74 Bảng 2. Sản lƣợng lá sắn (tấn/ha/2 năm) SL tƣơi Khoảng cách 66 (X ± mX ) VCK (X ± mX ) Protein (X ± mX ) 1,0 x 0,4 24,667 ± 0,35 6,432 ± 0,06 1,436 ± 0,02 0,8 x 0,4 31,594 ± 1,6 0 8,239 ± 0.26 1,840 ± 0,09 0,6 x 0,4 25,646 ± 1,74 6,688 ± 0,29 1,493 ± 0,10 Trần Thị Hoan và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 65 - 68 Bảng 4. Chi phí cho một đơn vị sản phẩm Chỉ tiêu Chi phí 1ha/2 năm Sản lƣợng BLS/ha/2 năm Chi phí cho 1kg BLS Đơn vị VNĐ Kg VNĐ Sản lƣợng lá sắn tƣơi đạt cao nhất ở khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) là 31,594 tấn/ha/2 năm. Khoảng cách trồng (0,6m x 0,4m) đứng hàng thứ hai là 25,646 tấn/ha/2 năm, ở khoảng cách trồng thƣa nhất (1,0m x 0,4m) đạt sản lƣợng lá thấp nhất: 24,667 tấn/ha/2 năm. Kết quả hoàn toàn phù hợp với kết quả công bố của D Wyllie, 1979 [5]. Sản lƣợng vật chất khô của lá sắn cũng xếp theo thứ tự nhƣ sản lƣợng lá tƣơi, khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) là: 8,239 tấn/ha/2 năm, khoảng cách (0,6m x 0,4m) đứng thứ hai là 6,688 tấn/ha/2 năm, khoảng cách (1,0m x 0,4m) đạt thấp nhất là: 6,432 tấn/ha/2 năm. Sản lƣợng protein cũng đạt cao nhất ở khoảng cách trồng có sản lƣợng lá cao nhất (0,8m x 0,4m) là 1,840 tấn/ha/2 năm và thấp nhất ở khoảng cách trồng có sản lƣợng lá tƣơi thấp nhất ( 1,0m x 0,4m) là: 1,436 tấn/ha/2 năm. Sản lƣợng lá sắn tƣơi, vật chất khô và protein của khoảng cách trồng (0,8m x 0,4 m) có sự sai khác rõ rệt so với các khoảng cách trồng (0,6m x 0,4m) và (1,0m x 0,4m) với p< 0,05. Cả 3 sản lƣợng nêu trên (tƣơi, vật chất khô, protein) của khoảng cách trồng (0,6m x 0,4m) so với (1,0m x 0,4m) không có sự sai khác nhau rõ rệt với p> 0,05. Nhƣ vậy, khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) đạt cả 3 sản lƣợng lá tƣơi, vật chất khô, protein cao nhất. Chi phí sản xuất cho 1 kg bột lá sắn Căn cứ vào chi phí phân bón, công lao động, hom giống, nghiền bột lá sắn cho 1ha trong hai năm và sản lƣợng bột lá sắn (BLS) của 2 năm, chúng tôi đã tính đƣợc chi phí sản xuất 1kg bột lá sắn và kết quả đƣợc trình bày tại bảng 4. Chi phí sản xuất trồng sắn lấy lá cho 1ha trong vòng hai năm nhiều nhất đối với khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) là 37,979 triệu đồng và khoảng cách trồng (0,6m x 0,4m) là 35,933 triệu đồng, còn khoảng cách trồng (1,0mx0,4m): 35,613 triệu đồng, nhƣng sản Khoảng cách trồng và năng suất 1,0 x 0,4 0,8 x 0,4 0,6 x 0,4 35.613.000 37.979.000 35.933.000 7.010 8.990 7.298 4.650 3.871 4.512 lƣợng bột lá sắn cũng đạt cao nhất ở khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m): 8,990 tấn/ha/2 năm và thứ hai là khoảng cách trồng (0,6m x 0,4m): 7,298 tấn/ha/2 năm, và thứ 3 là khoảng cách (1,0m x 0,4m): 7,010 tấn/ha/2 năm. Vì vậy, chi phí cho 1kg bột lá sắn thấp nhất ở khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) là : 3,871 đồng (VNĐ) và cao nhất ở khoảng cách trồng: (1,0m x 0,4m) là 4,650 VNĐ. KẾT LUẬN Trồng sắn với mục đích lấy lá để sản xuất bột lá làm thức ăn chăn nuôi với 3 khoảng cách trồng khác nhau là 1,0m x 0,4m; 0,8m x 0,4m và 0,6m x 0,4m, kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng cách trồng 0,8m x 0,4m đạt sản lƣợng lá tƣơi, vật chất khô, protein cao nhất và chi phí cho sản xuất cho 1kg bột lá sắn thấp nhất. Vì vậy, có thể áp dụng khoảng cách trồng này để trồng sắn lấy lá với mục đích làm thức ăn chăn nuôi. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Từ Quang Hiển, Nguyễn Khánh Quắc, Trần Trang Nhung (2002), Đồng cỏ và cây thức ăn gia súc, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr.8-49. [2]. Nguyễn Thị Lộc và Lê Văn An. Nghiên cứu sử dụng củ và lá sắn ủ xanh trong khẩu phần lợn thịt F1 (ĐB x MC), Tạp chí Khoa học Đại học Huế, (2008) 43- 48. [3]. Nguyễn Văn Thiện (2000), Phương pháp thí nghiệm trong chăn nuôi. Nxb Nông nghiệp. [4]. Froehlich. Y và Thái Văn Hùng. Sử dụng lá khoai mì trong công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, Sắn Việt Nam hiện trạng định hướng và giải pháp phát triển những năm đầu thế kỷ XXI, Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (2001) 173 -174. [5]. Wyllie D. (1979), Cassava leaf meals in broiler diets, Faculty of Agriculture, Forestry and Veterinary Science, University of Dar es Salaam, Morogoro, Tanzania. 67 Trần Thị Hoan và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 65 - 68 SUMMARY STUDY ON EFFECT OF CROP DENSITY ON CASSAVA LEAF YIELD AND COST OF LEAF POWDER Tran Thi Hoan, Tu Trung Kien College of Agriculture and Forestry - TNU Three densities of cassava (1,0m x 0,4m; 0,8m x 0,4m; 0,6m x 0,4m) were planted. It showed that the density of 0,8m x 0,4m provided the highest leaf yield which was 5.266 ton/ha; the density of 0,6 m x 0,4 m provided 4.211 ton/ha, the density of 1 m x 0,4 m provided the lowest yield which was 4.111 ton/ha. In term of fresh leaves, dry matter, protein the density of 0,8m x 0,4m provided highest values which were 31,594; 8,239; 1,840 respectively with the lowest cost which was 3.871 VND/kg leaf powder. Keywords: Spacing, planting, cassava leaves, production, cassava leaf meal Tel: 0988520086; Email: tranthihoan_tuaf@yahoo.com.vn 68 Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75 THE INFLUENCE OF WEANING TIME ON THE GROWTH OF PIGLETS AND REPRODUCTIVE PERFORMANCE OF SOWS IN VIET YEN DISTRICT, BAC GIANG PROVINCE Truong Huu Dung1*, Nguyen Thi Hanh2 1 College of Agriculture and Forestry - TNU Viet Yen Bac Giang College of Agriculture and Forestry 2 ABSTRACT Findings of the influence of weaning age on the growth of piglets and reproductive performance of Landrace, Yorkshire sows showed: When weaned at 18 days old, weaners grew better than those weaned at 25 days of age, in particular: In the period of 45 and 60 days, weaner‟s bodyweight was, 13,62; 21,19 kg - 13,29 and 20.70 kg/head respectively with (P <0,05). In addition, the early weaning had no negative effect on the susceptibility rate of piglets for some gastrointestinal diseases, such as diarrhea and coccidiosis. Weaned at 18 days of age does not reduce the fertility of sows in the next litters, result of reproductive performance of herd of sows in the two comparative and experiment groups showed that the number of newborn piglets/ litter; number of alive newborn piglets/ litter and number of weaned pigs/ litter is similar: 11,42 -11,33 head/ litter; 10,45 - 10,44 head/ litter; 9,47- 9, 38 head/ litter(P> 0,05), respectively. Weaned piglets at 18 days of age also help the sow re-estrus sooner, which reduces weight loss and improves feed consumption ratio (FCR) of weaners at 60 days of age compared with weaned pigs at 25 days of age, these values were: 5,11 - 6,75 days (P <0,05): 10,17 - 11,80% (P <0,05) and FCR: 2,47 - 2,75 , respectively. Keywords: Early weaning; sow fertility, FCR, Etc INTRODUCTION In animal production sector, pigs production is a conventional practice and it plays an important role in livestock production as its products mainly supplied to the market are pork, which accounted for 75-76% of the total meat supplied. Currently, pigs production in Viet Nam had grown very well, the numbers of sows increased from 2.9 million in 2001 to 4.09 million in 2009, which accounted for 13.10% of exotic sows, expecting to reached 14.20% by 2010. Although pig production in Viet Nam has grown rapidly in term of quantity as well as in term of quality. However, the quality of pork produced is relatively low, with lower percentate of lean meat, especially those produced in the midland provinces in the northern mountainous region. Thus, it does not only meet the consumer demand for lean, soft, little fat meat, with delicious taste and Tel: 0912221821; E.mail: truonghuudung_tuaf@yahoo.com flavor, but also fail to compete with regional markets and the world‟s ones. As one of nine districts of Bac Giang, Viet Yen district was interested in developing herd of exotic sows on the farm, however, farmers who switched from growing domestic pigs or cross-bred pigs to high productivity pigs were limited or lack of information such as feeding, management, disease prevention etc... but the most urgent issue that they confront with is the weaning age of piglets in order to achieve most economical efficiency. Currently, farmers practice of weaning piglets at between 21 and 25 days old. But this is for the purpose of improving the productivity of exotic sows, reducing feed cost for 1 kg of weaned pigs, and to increase the number of litters/sow/year, eliminating some diseases‟ transmission from sows to piglets, then the decision of the appropriate time to wean the piglets is a necessary task. Based on the above facts we conducted the trial: “Effect of weaning age on the growth performance of piglets and the fertility of sows in Viet Yen District, Bac Giang province.” 69 Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ MATERIALS AND METHODS Materials - Exotic swine of Landrace and Yorkshire breeds (72 sows) through the third and fourth litters. - Piglets are Landrace, Yorkshire breeds from birth to 60 days old. Methods and Measurements * Methods: The experiment was assigned according to group‟s comparison. The tests ensure the principle of batches uniformity , feeding, housing conditions ... CP's feed for mother and baby pig in the weaning period was used. Formula The numbers of piglet litter monitored Parent pigs litter number Sow„s Weight Number of piglets Breeds Male / female ratio Experimental factor 77(01): 69 - 75 Between two groups there are different lots of weaning time just for piglets Experimental group: weaning age was 18 days (experimental factor). Control group: weaning age was 25 days (It is currently a common practice at pig farms). In this experiment, we took the current weaning applied for reference in the ranches for more than a week early weaning (18 days). *Measurements: - The growth, feed consumption of the experimental piglets - The rate of diseases infection - The fertility of sows Unit Experimental group Control group litter 36 (18 L, 18Y) 36 (18 L, 18Y) n/a Landrace, Yrokshire litter kg head n/a M/F 3rd 200 - 210 377 371 Landrace, Yorkshire 175/202 178/193 wean at 18 days Wean at 25 days Table 1. Accumulative growth of the experimental pigs (kg / pig) Experimental group Control group n (head) CV (%) n (head) X ±mx X ±mx a 377 1,62 ± 0,01 3,11 371 1,63a ± 0,02 a 371 5,19 ± 0,05 5,96 366 5,15a ± 0,06 a 362 8,57 ± 0,06 3,99 354 8,44a ± 0,07 a 358 13,62 ± 0,05 2,27 349 13,29b ± 0,06 a 355 21,19 ± 0,13 3,74 345 20,70b ± 0,14 Period new born 15 30 45 60 * Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05). ( kg) Weight Experimental Thí nghi?m Control 30 25 20 15 10 5 Days of age 0 ss 15 30 45 60 Diagram 1. The cumulative growth of pigs over periods 70 CV (%) 5,82 7,62 4,64 2,81 3,99 Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ RESEARCH RESULTS Effect of early weaning on grow performance * Accumulative growth of experimental pigs: Bodyweight of newborn piglets between the two groups was similar at the start of experiment (P> 0,05) and increased gradually through the periods, exactly reflected the normality of the cumulative growth of piglets. During period from birth to 30 days old, piglets grew in two equal groups, which were 1,62- 8,57 kg/ head and 1,63 - 8,44 kg/ head respectively. So in this period, the early weaning did not only reduce the capacity of growing, but also promoted the growth of piglets in the next stage. Results obtained during the period from 30 45 days of age showed that growing pigs in experimental group and the control group had different bodyweight,:13,62 and 13,29 kg/ head, respectively (P<0,05). Thus, in this period, pigs in experimental group significantly grown faster than those in the control group by 0,33 kg/ head. (Checking for statistic is needed). 77(01): 69 - 75 At 60 days of age, the average bodyweight of pigs in experimental group was 21,19 kg/ head which was significantly (P<0,05) higher than that of control group (20,70 kg). So in experiment group, piglets were weaned early would grow better than those in control group. (As a result, piglets are weaned early in experimental group ,so they can be fed other feed. * Absolute growth rate of experimental pigs: During period from 31 - 45 days old, the absolute growth of pigs increased rapidly, in particular: the absolute growth of experimental group and the control group was 336,30 grams/head/day and 323, 30 grams/head/day, respectively. the growth rate during this period of the second group was significant different. During period from 46-60 days: in the two experimental and control groups, piglets recieved similar nurture and care conditions, but growth rate of pigs in two groups was significant different: 504,70 grams/head/day; 494,20 grams/head/day (P <0,05), respectively. The result is illustrated in Figure 1. Table 2. Absolute growth of experimental pigs (grams/head/day) Experimental group Period New born - 15 16 - 30 31 - 45 46 - 60 n (head) X mx 377 371 362 358 237,90a ± 3,60 225,70a ± 2,90 336,30a ± 2,80 504,70a ± 7,50 Control group Cv (%) 9,04 7,80 5,23 8,92 n (head) X mx 371 366 354 349 234,60a ± 4,20 219,30a ± 2,90 323,30b ± 2,90 494,20b ± 8,20 Cv (%) 10,74 7,93 5,38 9,92 Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05) Weigth (gram) Khèi l-îng (gam) 650 Thí nghiệm Đối chứng 600 550 500 450 400 350 300 250 Giai ®o¹n (ngày tuæi) Day of age 200 ss-15 16-30 31-45 46-60 Figure 1. Absolute growth of experimental pigs 71 Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ * Relative growth rate of experimental pigs: Relative growth rate is the percentage of body weight or size of the measured dimensions increased before and after survey. In Table 3 shows the relative growth rate of pigs was decreased. Relative growth rate of two experimental and control groups comply with the normality of growth which is reduced by an increase of age. During period from birth - 15 days old, relative growth rate of experimental group was 104,67% while that of the control group was 103,52%. During period from 16-30 days old, as this experimental factor has begun to be conducted on the two groups, the relative growth rate of the experimental and control groups was 49,28% and 48,53%, respectively. During period of 31-60 days old piglets had weaned and gradually adapted to new living conditions. Relative growth rate of pigs in two experimental and control groups is fairly uniform, with no significant differences. The result is shown in Figure 2. Influence of weaning age to the possibility of the incidence of diarrhea of experimental piglets * The incidence of diarrhea of experimental pigs: 77(01): 69 - 75 The Findings showed that during period from birth to weaning, the prevalence of diarrhea in both groups was very high: 5,57 - 7,55% (P> 0,05), respectively. After weaning, the experimental and control groups showed that the incidence of diarrhea decreased over the corresponding periods was: 3,49 - 3,85% and 1,10 - 1,14% (P> 0,05), respectively. This finding suggests that, in the later stages of weaning, the infection rate for digestive pathogen of both groups were reduced and there was no difference found amoung the group, it might be due to pigs had equiped with the developer digestive system than they had before and this was capable to prevent the invasion of digestive pathogen better than in the previous period and weaning early at 18 days of age of pigs did not affect the prevalence of diarrhea. * The incidence of coccidiosis of experimental pigs: Results in Table 5 shows that the incidence of coccidiosis in experimental and control groups occurred in several stages from birth to weaning, the differences between the two groups did not have statistical significance (P > 0.05). This demonstrates that 18- day weaning period did not affect the incidence of coccidiosis in piglets compared to 25 day weaned pigs. Table 3. Relative growth of experimental pigs Experimental group n (head) Rate (%) n (head) 377 104,67 371 371 49,28 366 362 45,51 354 358 43,45 349 Period new born - 15 16 - 30 31 - 45 46 - 60 Control group Rate (%) 103,52 48,53 44,64 43,57 Tỷ lệ (%) 140 120 Thí nghiệm Đối chứng 100 80 60 40 Giai ®o¹n (ngµy tuæi) 20 ss-15 16-30 31-45 46-60 Figure 2. Relative growth rate of experimental pigs 72 Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75 Table 4. The incidence of diarrhea of experimental pigs Period new born-wean Wean - 30 31 – 45 46 - 60 Experimental Group Comparative Group Number of Number of Number of Number of The incidence The incidence monitered infected pigs monitered infected pigs (%) (%) pigs (head) (head) pigs (head) (head) 377 21 5,57 a 371 28 7,55 a a 372 13 3,49 364 14 3,85 a a 363 4 1,10 352 4 1,14 a a 358 3 0,88 349 3 0,86 a Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05) Table 5. The incidence of coccidiosis of experimental pigs Period new born-wean Wean - 30 31 - 45 46 - 60 Experimental Group Number of Number of The monitored infected incidenc pigs(head) pigs (head) e (%) 377 131 34,75 a 372 2 0,54 a 363 0 0,00 358 0 0,00 Comparative Group Number of Number of monitored infected pigs(head) pigs (head) 371 120 364 1 352 0 349 0 The incidence (%) 32,35 a 0,27 a 0,00 0,00 Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05) Through this results we could see that early weaned pigs did not affect the incidence of coccidiosis and diarrhea in pigs. However, the period after weaning is the susceptible stage which is very high, therefore, avoiding stress is unnecessary at this point. (Vague: needa be reviewed) Affect of weaning age on sows’ fertility The result of monitoring the fertility of the sow of two experimental and control groups showed that the number of newborns/ litter, the number of alive newborns/litter and the number of weaned pigs/ sows‟ litter in the groups is similar,, which were 11,42 - 11,33 head/ litter; 10,45 - 10,44 head/ litter; 9,47 9,38 head/ litter (P > 0,05), respectively. The weight loss of sows in both groups showed significant differences, , from 10,17 to 11,80% (P<0,05), respectively. In experimental group, the weight loss is lower than that of the control group, it might due to the nursing time is 7 days shorter, therefore, early weaning had reduced the weight loss of sows. Re-estrus time of sows after weaning in experimental groups was 5,11 days and 6,75 days in the control group (P <0,05). Thus weaned pigs at 18 days had helped sows‟ reestrus sooner. The above analysis shows that the indicators on the fertility of the two groups do not differ markedly. Proved early weaning period of piglets does not reduce the reproductive performance of sows, on the other hand it also prevent the weight loss of sows, and sows soon returned to estrus cycle after weaning. Effect of early weaning age to feed consumption / kg of 60-day-old pigs FCR of 60-day-old piglets is an indicator of economic and of an important technique. For farmers, this indicator reflects the level of care, level of feeding of gilts and pigs post weaning to 60 days old, and it also reflects the breeding effective (production efficiency?). For sows, this indicator reflects her ability to utilize feed for the metabolic process to supply the needs for pregnancy and lactation. Results of FCR at 60-day-old pigs in the next litter is shown in Table 8. Amount of feed for pigs up to 60 days of age in experimental group was higher than that for the control group, which were: 210,54 and 200,49 kg/ litter, respectively. The reason is that in experimental group, with earlier weaning practice, the piglets were accessed to feed one week earlier than those in the control group. 73 Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75 Table 6. Results of monitoring reproductive performance of exotic sows in the fourth litter Experimental group Targets Number of newborn pigs/ litter Number of alive new born pigs/ litter Rate of alive new born pigs Weight of new born pigs / litter Weight of new born pigs/head Number of weaners / litter Weight of weaners Weight of weaners Weight loss of sow Re-estrus after separated unit n Cv (%) X ±mx Comparative group Cv X ±mx (%) n head 36 11,42a ± 0,21 10,95 36 11,33a ± 0,24 12,44 head 36 10,45a ± 0,08 4,83 36 10,44a ± 0,15 8,40 36 92,24a ± 1,30 8,78 36 92,87a ± 1,30 8,40 kg 36 16,94a ± 0,14 4,97 36 17,05a ± 0,24 8,56 kg 36 1,62a ± 0,01 3,89 36 1,63a ± 0,01 3,30 head 36 9,47 ± 0,34 15,55 36 9,38 ± 0,27 14,00 kg kg 36 36 53,81 5,72 ± ± 0,16 0,21 15,24 16,98 36 36 67,50 7,41 ± ± 1,98 0,12 15,20 10,97 % 36 10,17a ± 0,56 17,56 36 11,80b ± 0,43 25,59 day 36 5,11a ± 0,34 39,73 36 6,75b ± 0,68 60,59 % * Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05) Con 13 12 Thí nghiệm Đối chứng 11 10 9 8 7 Sè con ss/æ Sè con ss cßn sống/æ Sè con cai s÷a/æ Figure 3. Number of newborns/litter, the number of alive newborn pigs and number of weaned pigs/litter of experimental sows in the next litter Table 8. FCR of pigs till 60-day-of age Categories Feed for sows Feed for waiting for copulating sows Feed for pregnant sows, period 1 Feed for pregnant sows, period 2 Feed for breeding child sows Feed for 60 –day- old piglets / litter Total feed for a sow and for piglets until 60 – day- of age Total bodyweight of 60-day-old piglets/ litter Total of feed / kg until 60 - day-old pigs 74 Experimental group n Amount of (head) feed (kg) 36 36 36 36 36 36 36 36 12,77 153,00 60,00 80,00 210,54 516,31 208,93 2,47 Control group n Amount of feed (head) (kg) 36 36 36 36 36 36 36 36 16,87 153,00 60,00 115,00 200,49 545,36 198,31 2,75 Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ FCR up to 60-day-old pigs in experimental group was lower than that of the control group, which were from 2,47 and 2,75 respectively, The difference of 0,28 in FCR suggests that early weaning had reduced feed consumption of 1 kg per pig up to 60 -day- old piglets, this is a very important factor in pig production to reduce production cost, to improve economic efficiency in sows keeping. CONCLUSION Early weaning had a positive effect on piglets performance during the stage of 45 and 60 days of age. Early weaning did not affect the susceptibility rate of some gastrointestinal diseases such as diarrhea and coccidiosis. Early weaning did not reduce the reproductive performance of sows in the next litter. Early weaning had stimulated the sow to reestrus sooner. 77(01): 69 - 75 REFERENCES [1]. Dang Vu Binh (1999), “Phân tích một số ảnh hưởng tới các chỉ tiêu năng suất sinh sản trong một lứa đẻ của lợn nái ngoại” Findings of scientific research (1996-1998), Agricultural Publishing House, p.: 5-8. [2]. “Chăm sóc lợn con sơ sinh” Journal of science and life, No. 48, 06.17.2005, p.10. [3]. Phan Xuan Hao (2006), “Đánh giá khả năng sản xuất của lợn ngoại đời bố mẹ và con lai nuôi thịt” Report of writing in science and technology in the level of ministry [4]. Truong Lang (2004), Cai sữa sớm cho lợn con Da Nang Publishing House. [5]. Tran Quoc Vietnam, Ninh Thi Len, Pham Duy Pham and collaborators (1997) ”Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng và cai sữa lợn con giống ngoại ở 30 – 35 ngày tuổi”, Scientific results of breeding scientific and technical studies (1996-1997). Agricultural Publisher, p.: 12-20. TÓM TẮT ẢNH HƢỞNG CỦA THỜI GIAN CAI SỮA ĐẾN SINH TRƢỞNG CỦA LỢN CON VÀ KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA LỢN NÁI TẠI VIỆT YÊN, BẮC GIANG Trƣơng Hữu Dũng1, Nguyễn Thị Hạnh2 1 Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên 2 Trường Cao đẳng Nông Lâm Bắc Giang Kết quả nghiên cứu ảnh hƣởng của thời gian cai sữa đến sinh trƣởng của lợn con và năng suất sinh sản của lợn mẹ giống Landrace, Yorkshire cho thấy: Cai sữa ở 18 ngày tuổi, lợn con sinh trƣởng tốt hơn so với với cai sữa ở 25 ngày, cụ thể: Ở giai đoạn 45 và 60 ngày tuổi, khối lƣợng lợn con cai sữa tƣơng ứng là 13,62; 21,19 kg/con - 13,29 và 20,70 kg/con với (P< 0,05). Đồng thời, cai sữa sớm cho lợn con không ảnh hƣởng đến tỷ lệ cảm nhiễm một số bệnh đƣờng tiêu hóa nhƣ bệnh tiêu chảy và cầu trùng. Cai sữa ở 18 ngày tuổi không làm giảm năng suất sinh sản của lợn mẹ ở lứa tiếp theo và giúp lợn mẹ động dục trở lại sớm hơn, giảm tỷ lệ hao mòn và giảm tiêu tốn thức ăn/kg lợn con 60 ngày tuổi so với cai sữa 25 ngày tuổi, tƣơng ứng là: 5,11 - 6,75 ngày (P< 0,05); 10,17 - 11,80%, (P< 0,05); 2,47 - 2,75kg thức ăn/kg tăng khối lƣợng. Từ khóa: Cai sữa sớm; lợn nái sinh sản, FCR, Etc Tel: 0912221821; E.mail: truonghuudung_tuaf@yahoo.com 75 Trƣơng Hữu Dũng và cs 76 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75 Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 77 - 82 THE DROUGHT TOLERANT CHARACTERISTICS OF SOME UPLAND LOCAL MAIZE CULTIVARS (ZEA MAYS L.) IN THE NORTH OF VIET NAM Chu Hoang Mau1*, Nguyen Vu Thanh Thanh2, Pham Thi Thanh Nhan1 1* Department of Genetics and Modern Biology, College of Education - TNU 2 Department of Genetics, College of Science - TNU SUMMARY Maize (Zea mays L.) is one of the widely grown grains in Viet Nam. The local upland maize cultivars play an important role for the life of people living in mountainous regions in the North of Viet Nam. The quality of seed and drought tolerance ability of local upland maize cultivars are good. In this work, we have studied drought tolerance character and dehydrin gene of some local upland maize cultivars. Among them these are six cultivars with high drought tolerance ability (BK, HL, QH, YM, TL, and QU) and two maize cultivars BG and VN2 with low drought tolerance ability. Dehydrin – LEA (lete embryogenesis abundant) – D11 is a plant protein family in a number of higher plants, a species of protein produced by plants during drought or low temperature stress. These are six dehydrin protein types of maize: dhn1, dhn2, dhn3, dhn4, dhn5, and dhn6. DHNs are unified by the presence of one or more copies of a putative amphipathic α helix-forming domain (the K-segment), which is highly conserved in higher and lower plants and has a 15 residue consensus sequence EKKGIMDKIKEKLPG. We had cloned dhn1 gene from DNA of genome of local upland maize cultivars. The 0.6 kb of dhn1 gene was amplified by PCR and carry out successfully with LeaZeM1 primers. Cloning of PCR products and DNA sequencing is carrying out. Keywords: Dehydrin, drought, upland local, maize,Dhn1, cloning, PCR INTRODUCTION Maize is widely cultivated throughout the world. Maize (Zea mays L.) is also one of the widely grown grains in Viet Nam. The local upland maize cultivars play an important role for the life of people living in mountainous regions in the North of Viet Nam. The quality of seeds, drought tolerance ability and resistant ability for of local upland maize cultivars are good. Therefore, the preservation of the gene resource of the local upland maize cultivars is now very necessary. To research on drought tolerance ability of local upland maize cultivars, we isolated dehydrin gene. Dehydrin – LEA (late embryogenesis abundant) – D11 and dehydrins are products of multigene families in a number of higher plants (Close, 1996) [2], a species of protein produced by plants during drought or low temperature stress. These are six dehydrin protein types of maize: dhn1, dhn2, dhn3, dhn4, dhn5, and dhn6. DHNs are unified by Tel:0913 383 289; Email:mauchdhtn@gmail.com the presence of one or more copies of a putative amphipathic α -helix-forming domain (the K-segment), which is highly conserved in higher and lower plants and has a 15 residue consensus sequence EKKGIMDKIKEKLPG (Allagulova et al.,2003 [1]; Hong-Bo et al., 2005 [6]; Yuxiu et al. 2007 [15]). Dehydrins (DHNs; late embryogenesis abundant D-11) are a family of plant proteins induced in response to abiotic stresses such as drought, low temperature, and salinity or during the late stages of embryogenesis (Close, 1989 [3]; Allagulova et al., 2003 [1], Roat, 2006 [14]). In Viet Nam, quality of seeds, drought tolerance ability and resistant ability for of local upland maize cultivars in the North have are good (Mau and Anh, 2005 [10]; Nhan et al., 2007 [13]), they are diversity of phenotype and genotype (Mau and Anh., 2006 [11]). The genetic diversity and diversity of dehydrin gene of Viet Nam maize cultivars has been researched (Lien et al., 2005 [8]; Mau et al, 2007 [12]). 77 Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ MATERIALS AND METHODS Eight local maize cultivars (BK, HL, QH, YM, TL, QU, BG and VN2) provided by the mountainous region of North in Viet Nam (Table 1). One specific primer pair, including: LeaZeM1F 5' ATGGAGTACGGTCAGCAGGGGC 3‟ LeaZeM1R 5' TCAGTGCTGTCCGGGCAGC 3' Cloning pTZ57R/T vectors. Both primers and vector are supplied by Fermentas. Definition of sugar content and α- amylase activity value at the germinating stage by 5% sorbitol treatment. Assessment of drought tolerance ability of eight maize cultivars at the plantlet stage by factitious drought treatment. Definition of the dissimilar coefficients of maize cultivars by the NTSYSpc- 2.02i program. Total DNA is separated from leaf of eight maize cultivars following the method of Gawel and Jarnet (Gawel et al., 1991) [4]. PCR is performed in a total volume of 50 μl. PCR conditions are: an initial denaturation step of 940C for 3 min, followed by 30 cycles 77(01): 77 - 82 of 940C for 30 sec, 570C for 1 min and 720C for 1 min. The final extension step is 720C for 10 min. The PCR products are checked by 1% agarose gel electrophoresis. PCR products are cloned into pTZ57R/T (Glick et al., 1998) [5]. RESULTS AND DISCUSSIONS The drought tolerance ability of some local Vietnamese maize cultivars * The analysis of biochemistry characters at the germinating stage: We researched on sugar content and αamylase activity in 8 maize cultivars at the germinating stage by 5% sorbitol treatment. The results have shown in table 2 and table 3. When treating physiological drought by 5% sorbitol treatment, sugar content and αamylase activity were also increased from 1 to 11 day germ maize, and decreased at 14 day germ maize, highest at 11 day germ maize. HL cultivar had the highest sugar content and α- amylase activity, VN2 cultivar was lowest. Table 1. Origin of eight maize cultivars in the North of Vietnam Order 1 2 3 4 5 6 7 8 Maize cultivars BG BK HL QH YM TL VN2 QU Wax/flint Wax Wax Wax Wax Wax Wax Wax Flint Origin Local Bacgiang cultivar Local Backan cultivar Local Halang-Cao Bang cultivar Local Quanghoa- Caobang cultivar Local Yenminh- Ha Giang cultivar Local Tralinh- Cao Bang cultivar Hybrids Vietnam cultivar Local Quanguyen- Cao Bang cultivar Table 2. The variation of sugar content of 8 maize cultivars by 5% sorbitol treatment BG BK The variation of sugar content at the germinating stage by 5% sorbitol treatment (%) 1 day 3 day 5 day 7 day 9 day 11 day 14 day germ germ germ germ germ germ germ maize maizet maizet maize maize maize maize 0.53± 0.08 0.65± 0.02 0.67± 0.06 1.04± 0.01 1.05± 0.01 1.32± 0.05 0.58± 0.01 0.34± 0.03 0.40 ±0.08 0.79±0.01 1.04± 0.02 1.05± 0.01 1.33± 0.03 0.60± 0.01 HL QH 0.23± 0.03 0.30± 0.05 0.52± 0.10 0.59± 0.06 0.79± 0.01 0.82± 0.03 1.05± 0.01 1.05± 0.01 1.06± 0.01 1.06± 0.00 1.39± 0.02 1.34± 0.06 0.64± 0.03 045± 0.09 YM TL 0.29± 0.02 0.33± 0.03 0.57± 0.02 0.60± 0.10 0.85± 0.03 0.84± 0.11 1.05± 0.01 1.05± 0.02 1.07± 0.00 1.06± 0.00 1.32± 0.04 1.35± 0.04 0.55± 0.09 0.47± 0.07 VN2 QU 0.18± 0.04 0.18± 0.07 0.50± 0.03 0.65± 0.07 0.68± 0.05 0.86± 0.05 1.02± 0.02 1.03± 0.02 1.05± 0.01 1.06± 0.00 1.30± 007 1.38± 0.04 0.40± 0.09 0.66± 0.01 Maize Cultivars 78 Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 77 - 82 Table 3. The variation of α- amylase activity of 8 maize cultivars by 5% sorbitol treatment Maize The variation of α- amylase activity at the germinating stage by 5% sorbitol treatment (activity unit/mg) Cultivars 1 day germ maize 3 day germ maize 5 day germ maize 7 day germ maize 9 day germ maize 11 day germ maize 14 day germ maize BG 0.0003±0.00 0.0081±0.00 0.0120±0.00 0.0930±0.04 0.1462±0.00 0.1641±0.00 0.0071±0.00 BK 0.0004±0.00 0.0033±0.00 0.0124±0.00 0.0640±0.02 0.0733±0.00 0.2024±0.00 0.0043±0.00 HL 0.0004±0.00 0.0014±0.00 0.0131±0.00 0.2063±0.06 0.2240±0.00 0.2430±0.00 0.0162±0.00 QH 0.0004±0.00 0.0040±0.00 0.0054±0.00 0.0114±0.00 0.0281±0.00 0.2073±0.01 0.0291±0.00 YM 0.0002±0.00 0.0062±0.00 0.0081±0.00 0.0642±0.00 0.0674±0.00 0.1934±0.00 0.0442±0.00 TL 0.0003±0.00 0.0051±0.00 0.0070±0.00 0.0463±0.01 0.0703±0.00 0.1942±0.00 0.0394±0.00 VN2 0.0002±0.00 0.0003±0.00 0.0022±0.00 0.0411±0.01 0.0681±0.00 0.1340±0.00 0.0110±0.00 QU 0.0004±0.00 0.0022±0.00 0.0061±0.00 0.0542±0.01 0.0612±0.00 0.1474±0.01 0.0042±0.00 * Study on the drought tolerance ability of maize cultivars: We assessed the drought tolerance ability of maize cultivars at the plantlet stage by factitious drought treatment. The results showed the difference of the drought tolerance ability (table 4). The dryness index in maize cultivars were from 10715.40 to 33763.98 and was highest drought tolerance ability in HL cultivar. The dissimilar coefficients of response of 8 maize cultivars were determined by NTSYSpc- 2.02i program. The dendrogram was established for two groups: BG, VN2 in one, and BK, HL, TL, QU, QH, YM in other. The similar coefficients of maize cultivars were from 0% to 30.43% (fig 1). By physiological and factitious drought treatment, we selected HL cultivar with the highest drought tolerance ability, and VN2 cultivar with the lowest. Amplification and cloning of dehydrin genes Dehydrins are a group of proteins that are accumulated during environmental stress such as drought and low temperature or during late embryogenesis. However, DHNs contain at least one copy of a consensus 15-amino acid sequence, the "K segment," which resembles a class A2 amphipathic alpha-helical, lipidbinding domain found in other proteins such as apolipoproteins and alpha-synuclein. The presence of the K segment raises the question of whether DHNs bind lipids, bilayers, or phospholipid vesicles (Allagulova et al., 2003 [1]; Yuxiu et al., 2007 [15]). With the analysis of dehydrin gene sequence in a maize cultivar in NCBI which has code X15290, we design specific primer pair to amplify and see dehydrin genes in maize cultivars (http://www.ncbi.nlm.nih.gov/X15290) [7]. To isolate gene encoding dehydrin in genome of maize cultivars, we segregated the DNA total. The DNA concentration of 50 ng of all sample was suitable to amplify the dehydrin gene fragments. There are no visual difference in the size of PCR products of all DNA sources from eighth cultivars, the size of the PCR product expected to be around 600 bp (Fig 2). We selected HL and VN2 cultivar to clone. The PCR products were inserted into the cloning vector pTZ57R/T and transformed into E.coli strain DH5α and selected by blue/white technique. The results of gene transfomation and selection shows in figure 3. We choose white fungus colony grewn in LB liqid medium containing 100 mg/l ampicillin all night. PCR products of cloning are checked by 1% agarose gel electrophoresis (figure 3). 79 Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 77 - 82 Table 4. The drought tolerance ability of maize cultivars at the plantlet stage Maize cultivars Dryness index BG BK HL 12799.96 22148.68 33763.98 QH YM TL VN2 QU 18631.25 16727.51 25193.69 10715.40 17535.57 Figure 1. Phylogenetic tree of 8 maize cultivars M 1 2 3 4 5 6 600bp→ Figure 2. PCR products amplified using dehydrin genes specific primers and genomic DNA samples of BK, HL, TL, QU, BG and VN2 maize cultivars; M: Marker 1kb M 1 2 800bp→ Figure 3. Result of PCR cloned products M: Marker . 1. HL; 2.VN2 80 Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ We can see the result of electrophoresis shown in fig 3 that these PCR products which are issued from white fungus colony are positive. Most of the products are only one band with right size. This improves that the results of transfomation and cloning selection are good and PCR is optimistic. We can confirm that connecting PCR products with clone vectors has good result. We choose white fungus colony of researching samples with these Plasmids were purified by QIAprep Spin Miniprep Kit. LEA is proteins group have playing important on the water loss and the droughtresistant ability of cell. When dehydration occurs, messenger RNA appears in the seed and is forming and increase of quantity, including many different messenger RNA of in the seeds and are decomposition all in the process of germinating. The dehydrin (dhn) are associated with phospholipid particles in the final stages of embryo formation and disappear very quickly start to germinate. This capability of dhn enables prediction about protection functions in the cell membrane of phospholipid particles. The level of transcription of LEA gene is controlled by the absisis acid (ABA) and dehydration and osmotic pressure of the cells. A characteristics of the group of LEA proteins include from 82 to 575 amino acids, rich in hydrophobic amino acids (lysine, glycine), does not contain cysteine and tryptophan, is the α- helix and heat resistance (Close, 1996) [2]. It replace the position of water in cells and perform different functions such as ion isolation and protection of proteins of membrane, degrade denatured proteins and adjust the osmotic pressure. Introns exist in most of the genetic structure of eukaryote cells and are noted research to find out its function. In structure of intron is rich of AT and have jump elements (transposone element). The diversity in quantity and length of introns can affect the function of gene expression. Most of dehydrin genes have no introns, but in some cases they also discovered the small introns or SK2 Y2SK2 structured. 77(01): 77 - 82 Dehydrin gene was isolated from genomic DNA of maize Viet Nam in size is 0.65 kb and have 121 bp of region introns, shorter than 16 bp of the Rab17 gene (Lien et al., 2007) [9]. The scientists found that some introns are in positions of genes can promote of expression in plants increases several times. Therefore necessary to have further studies to elucidate the role of introns in the structure of dehydrin gene. Local glutinous maize cultivars in mountainous northern of Vietnam have high quality seeds and the drought-resistant ability, in addition, local glutinous maize seeds are resistant to termites. The problem is the structure of dehydrin genes and other genes isolated from the local glutinous maize related to drought tolerance have what different with the genes of other maize cultivars? COCLUSIONS By physiological and factitious drought treatment, we selected HL cultivar with the highest drought tolerance ability, and VN2 cultivar with the lowest. We have designed one specific primer pair and isolated dehydrin genes from two maize cultivars (Zea mays L.) with PCR analysis. A 600 bp dehydrin gene fragment from DNA genome of local maize was successfully amplified. The PCR products containing the dehydrin fragment was cloned in pTZ57R/T vector and plasmids were purified by QIAprep Spin Miniprep Kit and sequenced. Should continue to clarify the differences in genetic structure of local mountain maize folds with other corn varieties. REFERENCES [1]. Allagulova Ch. R., Gimalov F. R., Shakirova F. M., Vakhitov V. A. 2003. The Plant Dehydrins: Structure and Putative Functions, Biochemistry (Moscow), 68(9): 945-951. [2]. Close T.J., 1996. Dehydrin: Emergence biochemical role family plant dehydrin proteins, Plant Physiol 97, 795-803. [3]. Close T.J., 1989, Zea mays mRNA for dehydrin (dhn1 gene), Plant Mol. Biol, 13 (1), 95- 108. 81 Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ [4]. Gawel N.J., Jarret R.L., 1991. Genomic DNA isolation. http://www.igd.cornell.edu/ [5]. Glick R.B., Pasternak J.J., 1998, Molecular Biotechnology, American Society Microbiology. [6]. Hong-Bo S., Zong-Suo L., Ming-An S., 2005. LEA proteins in higher plants: Structure, function, gene expression and regulation, Colloids and surfaces B: Biointerfaces, 45 (3-4): 131-135. [7]. Http://www.ncbi.nlm.nih.gov/X15290. [8]. Lien TTP., Ton ND., Huong LTT., Cuong BM., Tinh NH., 2005, Isolation of dehydrin gene from Zea mays , Journal of Biotechnology, 3(3): 347- 352. [9]. Lien TTP., Thu VH., Cuong BM., 2007. Polymorphism of dehydrin genes of several Vietnamese maize cultivars. Journal of Biotechnology 5(4): 485-491. [10]. Mau CH., Anh NV, 2005. The assessment of the quality of seeds and the responsive ability to drought condition of some local maize cultivars in mountainous region. Science & Technology Journal of Agriculture & Rural develpment, 66: 20-22. 77(01): 77 - 82 [11]. Mau CH., Anh NV., 2006, The genetic diversity of some local stichky and white maize cultuvars with different drought ability. Journal of Science &Technology, Thai Nguyen University, 2 (38): 77-84 [12]. Mau CH., Thanh NTT., Nhan NT., 2007. Reseach on gene of drought tolerance of some upland local maize cultivars (Zea mays L.) in the North of Vietnam. Bio-Hanoi 2007 - International Conference, December 18-19, 2007 Hanoi, Vietnam. [13]. Nhan PT., Mau CH., Tam NT., 2007. The response of some upland local sticky corn cultivars (Zea mays L.) in tissue and young phase. Proceeding, the 2007th National Conference on Life Science. Science and Technics Publishing House Hanoi, 784-788. [14]. Rorat T., 2006. Plant dehydrin –tissue location structure and function. Cell Mol Biol Lett 11: 536-556. [15]. Yuxiu Z., Zi W., Jin X., 2007. Molecular mechanism of dehydrin in response to environmental stress in plant, Progress in Natural Science, 17 (3): 237- 246. TÓM TẮT ĐẶC TÍNH CHỊU HẠN CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ ĐỊA PHƢƠNG (ZEA MAYS L.) Ở MIỀN NÖI PHÍA BẮC VIỆT NAM Chu Hoàng Mậu1, Nguyễn Vũ Thanh Thanh2, Phạm Thị Thanh Nhàn1 1* Bộ môn Di truyền và Sinh học hiện đại, Khoa Sinh-KTNN, Trường Đại học Sư phạm 2 Bộ môn Di truyền, Khoa Khoa học Sự sống, Trường Đại học Khoa học Ngô (Zea mays L.) là một trong những loại ngũ cốc đƣợc trồng rộng rãi ở Việt Nam. Các giống ngô địa phƣơng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của ngƣời dân sống ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Các giống ngô địa phƣơng miền núi có chất lƣợng hạt cao và có khả năng chịu hạn tốt. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu khả năng chịu hạn và phân lập gen dehydrin của một số giống ngô nếp địa phƣơng miền núi. Về khả năng chịu hạn, 6 giống ngô có khả năng chịu hạn cao là: BK, HL, QH, YM, TL, và QU và hai giống ngô VN2 với BG có khả năng chịu hạn thấp. Dehydrin - LEA (lete embryogenesis abundant) - D11 là loại protein trong họ protein của thực vật bậc cao, một loại protein đƣợc tổng hợp khi gặp hạn hán hoặc stress nhiệt độ thấp, chúng gồm có 6 loại protein dehydrin: dhn1, dhn2, dhn3, dhn4, dhn5, và dhn6. DHNs có nhiều bản sao, nhƣng đều có một vùng bảo thủ giống nhau ở cả thực vật bậc cao và thực vật bậc thấp gồm 15 acid amine: EKKGIMDKIKEKLPG (the K-segment). Chúng tôi đã nhân bản thành công gen dhn1 từ ADN hệ gen của các giống ngô địa phƣơng miền núi với kích thƣớc là 0,6kb bởi cặp mồi LeaZeM1. Sản phẩm PCR đã đƣợc tách dòng và giải trình tự. Từ khóa: Dehydrin, hạn hán, miền núi, ngô, Dhnl, nhân bản, PCR Tel:0913 383 289; Email:mauchdhtn@gmail.com 82 Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 83 - 87 NGHIÊN CỨU QUAN HỆ DI TRUYỀN TÔM SÖ (PENEAUS MONODON) BẰNG KỸ THUẬT RAPD Nguyễn Thị Thu Phƣơng, Nguyễn Phú Hùng, Hoàng Thị Thu Yến * Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT RAPD (Random Amplified Polymorphic - DNA) là một trong những kỹ thuật đƣợc sử dụng trong phân tích đa dạng, bảo tồn và nhận dạng giống loài. Trong đề tài này chúng tôi sử dụng kỹ thuật RAPD để xác định quan hệ di truyền của các mẫu tôm sú thu thập ở một số tỉnh: Nam Định, Quảng Ninh, Hải phòng và Thanh Hóa. Mẫu tôm thu đƣợc bảo quản trong cồn 98 % và lƣu giữ ở - 200C. Sử dụng kỹ thuật RAPD để phân tích quan hệ di truyền của tôm sú với 6 mồi ngẫu nhiên: RA36, RA40, RA143, RA142, RA45, kết quả nhận đƣợc 45 phân đoạn đa hình trong 54 phân đoạn ngẫu nhiên với kích thƣớc ƣớc tính từ 0.35 – 3.0kb. Kết quả xử lý bằng phần mềm NTSYS version2.0, cho thấy 8 mẫu tôm đƣợc chia làm hai nhóm chính với hệ số sai khác là 0,17. Nhóm chính còn lại bao gồm 7 mẫu tôm còn lại. Từ khóa: Tôm sú (Penaeus monodon), đa hình, hệ số đồng dạng di truyền, RAPD MỞ ĐẦU Nghề nuôi tôm sú đã và đang phát triển rất nhanh trên thế giới. Hiện tại, loài này đƣợc nuôi ở hơn 22 quốc gia, tôm sú đóng vai trò rất lớn trong việc cải thiện đời sống của các cộng đồng dân cƣ ven biển và tạo nguồn thu nhập ngoại tệ. Tại Việt Nam, nuôi trồng thuỷ sản ngày càng khẳng định vị thế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Từ sự thuận lợi về điều kiện tự nhiên, khí hậu nên các tỉnh ven biển tiến hành nuôi trồng nhiều mặt hàng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao, trong đó nuôi tôm sú đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá có hiệu quả ở các tỉnh ven biển nƣớc ta. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành một trong 5 quốc gia xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới [6]. Mặc dù vậy, việc nuôi tôm sú đang bị hạn chế bởi những khó khăn nhƣ: sự lan tràn các dịch bệnh, chất lƣợng tôm giống sa sút, thiếu hụt nguồn tôm sú bố mẹ... Tại Việt Nam, theo Bộ Thuỷ sản nhu cầu giống tôm sú khoảng 30 tỉ con, hiện tại các nhà cung cấp giống chỉ đáp ứng một nửa nhu cầu. Để cân bằng nguồn cung và cầu, các nhà nuôi trồng thuỷ sản nhất thiết phải đảm bảo nguồn tôm giống bố mẹ có chất lƣợng sản xuất. Yêu cầu sản xuất của tôm sú Việt Nam đòi hỏi phải gấp rút giải quyết tình trạng thiếu tôm sú bố mẹ và nâng cao chất lƣợng tôm giống. Giống tôm phải sạch bệnh và có chất lƣợng cao [3]. Tel:0912896298 ; Email: yenhoangthithu@gmail.com Để có đƣợc giống tôm khoẻ và sạch bệnh, các nhà khoa học đã có nhiều nghiên cứu để chọn tạo giống. Trong đó, nghiên cứu một số chỉ thị phân tử là công cụ hỗ trợ chính xác trong phân tích đa dạng, bảo tồn và nhận dạng giống loài [5], [7]. Một số chỉ thị đang đƣợc quan tâm nghiên cứu nhƣ RAPD (Random Amplified Polymorphic DNA), AFLP (Amplified Fragments Length Polymorphism. Ở Việt Nam nhóm tác giả Quyền Đình Thi và cộng sự (2003), Nguyễn Thị Thảo và cộng sự (2004) đã sử dụng kỹ thuật RAPD, RFLP, microsattlelite để đánh giá sự đa dạng di truyền tôm sú nuôi ở Việt Nam [1], [2]. Do đó, chúng tôi tiến hành sử dụng kỹ thuật RAPD để góp phần đánh giá sự đa dạng di truyền của tôm sú đƣợc nuôi tại một số tỉnh ở miền Bắc nƣớc ta. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP Nguyên liệu Mẫu nghiên cứu: Là những mẫu tôm sú thu thập từ một số tỉnh khác nhau: Nam Định (1 mẫu - NĐ), Thanh Hoá (1 mẫu - SS), Hải Phòng (3 mẫu – ĐS1, ĐS2, HA ), Quảng Ninh (1 mẫu - QN). Mẫu sau khi thu thập đƣợc bảo quản trong cồn, lƣu giữ ở - 200C. Phƣơng pháp * Phương pháp tách chiết DNA tổng số Quy trình tách chiết DNA tổng số theo phƣơng pháp của Ausubel và cộng sự (1993) có cải tiến [4]. 83 Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ * Phương pháp phân tích quan hệ di truyền các mẫu tôm sú Phân tích quan hệ di truyền các mẫu tôm sú thu thập từ các tỉnh khác nhau bằng cách sử dụng 6 mồi ngẫu nhiên đƣợc trình bày ở bảng sau. Bảng 1. Trình tự các mồi ngẫu nhiên Mồi Trình tự RA36 5‟ GGGGGTCGTT 3‟ RA40 5‟GGCGGACTGT 3‟ RA45 5‟ TACCACCCCG 3‟ RA142 5‟CAATCGCCGT 3‟ RA143 5‟ TCGGCGATAG 3‟ RA159 5‟ GTTCACACGG 3‟ Phản ứng RAPD Phản ứng RAPD đƣợc thực hiện bằng enzyme Taq DNA polymerase (Fermentas) với chu trình nhiệt nhƣ sau: 95oC -3 phút; (95oC -30 giây; 36oC - 45 giây; 72oC -1 phút) x 45 chu kỳ; 72o, 10 phút; kết thúc và giữ ở 4oC. Sản phẩm đƣợc kiểm tra trên gel agarose 2%. Kết quả đƣợc chụp bằng máy gel doc. Phân tích số liệu Dựa vào hình ảnh điện di sản phẩm RAPD, sự xuất hiện các băng điện di đƣợc ƣớc lƣợng kích thƣớc dựa vào marker chuẩn và thống kê các băng điện di với từng mồi ở từng mẫu nghiên cứu. Sự xuất hiện hay không xuất hiện các băng điện di đƣợc tập hợp để phân tích số liệu theo nguyên tắc: số 1- xuất hiện phân đoạn DNA và số 0 – không xuất hiện phân đoạn DNA. Các số liệu này đƣợc xử lý trên máy tính theo chƣơng trình NTSYSpc version pc 2.0 (Applied Biostatistics Inc., USA., 1998) để xác định quan hệ di truyền của các mẫu nghiên cứu. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Kết quả phân tích quan hệ di truyền bằng phản ứng RAPD DNA tổng số đƣợc tách chiết theo phƣơng pháp của Ausubel và cộng sự (1993) có cải tiến [4]. Sản phẩm DNA tổng số đƣợc kiểm tra trên gel agarose 0,8% và xác định trên máy quang phổ. DNA tổng số tách chiết đƣợc 84 77(01): 83 - 87 có chất lƣợng tốt, và tạp chất không nhiều. DNA tổng số thu đƣợc đảm bảo cho tiến hành các thí nghiệm tiếp theo. Từ 8 mẫu đã tách DNA tổng số, chúng tôi tiến hành kỹ thuật RAPD với 6 mồi ngẫu nhiên RA36, RA40, RA45, RA142, RA143, RA159. Kết quả thu đƣợc 45 phân đoạn đa hình trong số 54 phân đoạn ngẫu nhiên có kích thƣớc ƣớc tính từ 0.35 – 3.0 kb. Trong đó tất cả các phân đoạn thu đƣợc khi sử dụng mồi RA45, RA143, RA142 đều là các phân đoạn đa hình. Đặc biệt mồi RA36 có số phân đoạn đa hình thấp nhất (chiếm 50%). Kết quả phân tích RAPD đặc trƣng nhất đƣợc thể hiện tại hình 1, 2 và 3. Mồi RA45 Kb M 1 2 3 4 5 6 7 8 6,0 3,0 2,0 1,5 1,0 0,75 0,5 0,25 Hình 1. Kết quả điện di đồ sản phẩm RAPD của 8 mẫu tôm sú với mồi RA45, M: Marker 1 kb, 1: HP1, 2: HA, 3: SS, 4: QN, 5: ĐS1, 6: NĐ, 7: ĐS2, 8: HP2 Qua kết quả điện di sản phẩm RAPD của mồi RA45 ta thấy số phân đoạn DNA ngẫu nhiên nhân bản đƣợc từ 2 – 10 phân đoạn. Và có kích thƣớc đƣợc ƣớc tính từ 0.6 – 3 kb. Trong đó chỉ có mẫu HP1 là đƣợc nhân bản ít nhất (2 phân đoạn) còn mẫu ĐS2 có số phân đoạn DNA đƣợc nhân bản nhiều nhất (10 phân đoạn). Với mồi RA45 có tính đa hình cao với 8 mẫu tôm. Trong đó, phân đoạn DNA đƣợc nhân bản ở vị trí 2.8 kb chỉ xuất hiện với hai mẫu ĐS2 và HP2 còn các mẫu khác thì không xuất hiện. Và ở vị trí 2.5 kb phân đoạn DNA chỉ xuất hiện với mẫu HP2 và tại 0.7 kb chỉ xuất hiện với mẫu SS còn tất các mẫu khác đều không xuất hiện băng. Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Mồi RA142 1 2 3 4 5 6 7 8 M Kb 6,0 3,0 2,0 1,5 1,0 0,75 0,5 0,25 Hình 2. Kết quả điện di đồ sản phẩm RAPD của 8 mẫu tôm sú với mồi RA142, M: Marker 1 kb, 1: HP1, 2: HA, 3: SS, 4: QN, 5: ĐS1, 6: NĐ, 7: ĐS2, 8: HP2. Từ kết quả điện di sản phẩm RAPD của 8 mẫu tôm với 6 mồi ngẫu nhiên, ta thấy số phân đoạn DNA nhân bản đƣợc ở các mẫu tôm của mồi RA142 dao động từ 1 – 4 phân đoạn. Các phân đoạn có kích thƣớc ƣớc tính từ 0.5 – 1.9 kb. Trong đó các mẫu NĐ, HP2 có số phân đoạn đƣợc nhân bản nhiều nhất là 4. Trong khi mẫu SS chỉ có 1 phân đoạn DNA đƣợc nhân bản. Các phân đoạn DNA đƣợc nhân bản đều có tính đa hình. Ta thấy tại vị trí 0.55kb đều xuất hiện phân đoạn DNA đƣợc nhân bản ngẫu nhiên trừ mẫu SS, phân đoạn 1.8 kb chỉ có mẫu NĐ và 1.5 kb chỉ có HP2 là xuất hiện băng còn mẫu khác không có băng xuấthiện. Tại vị trí 0.6 kb các mẫu đều xuất hiện băng trừ hai mẫu SS và NĐ. Mồi RA143 Kb M 1 2 3 4 5 6 7 77(01): 83 - 87 Qua kết quả điện di sản phẩm RAPD cho thấy số phân đoạn DNA ngẫu nhiên nhân bản đƣợc ở 8 mẫu tôm của mồi RA143 dao động từ 2 – 4 phân đoạn. Các phân đoạn có kích thƣớc giao động từ 0.35 - 1.8 kb. Trong đó mẫu NĐ có số phân đoạn DNA ngẫu nhiên đƣợc nhân bản nhiều nhất (4 phân đoạn), còn mẫu HP1 có số lƣợng phân đoạn DNA nhân bản ít nhất (2 phân đoạn). Tại vị trí 0.6 kb chỉ có mẫu ĐS1 và tại 0.5 kb chỉ có mẫu NĐ có phân đoạn DNA đƣợc nhân bản, các mẫu còn lại không xuất hiện. Phân đoạn có kích thƣớc 1.0 kb và 0.35 kb xuất hiện phân đoạn DNA ở tât cả các mẫu trừ mẫu ĐS1, NĐ. Nhƣng tại vị trí 1.7 kb và 1.1kb thì mẫu ĐS1, NĐ xuất hiện băng còn các mầu khác thì không. Tổng hợp các băng đoạn xuất hiện hay không xuất hiện trên điện di đồ sản phẩm RAPD của 8 mẫu tôm với 6 mồi ngẫu nhiên ta thu đƣợc số phân đoạn đa hình và không đa hình đƣợc thống kê dƣới bảng 2. Bảng 2. Số phân đoạn DNA xuất hiện và số phân đoạn DNA đa hình Mồi RA36 RA40 RA45 RA142 RA143 RA159 Tổng Phân đoạn DNA nhân bản 8 6 15 7 7 11 54 Phân đoạn DNA đa hình 4 5 15 7 7 7 45 Tỉ lệ phần trăm phân đoạn đa hình 50 83.3 100 100 100 64 83,3 8 6,0 3,0 2,0 1,5 1,0 0,75 0,5 0,25 Hình 3. Kết quả điện di sản phẩm RAPD của 8 mẫu tôm sú với mồi RA143 M: Marker 1kb, 1: HP1, 2: HA, 3: SS, 4: QN, 5: ĐS1, 6: NĐ, 7: ĐS2, 8: HP2 Phân tích mối quan hệ di truyền giữa các mẫu tôm dựa trên kết quả phân tích RAPD Dựa trên sự xuất hiện hay không xuất hiện các phân đoạn DNA của các mẫu khi phân tích điện di sản phẩm RAPD, chúng tôi xác định đƣợc hệ số đồng dạng di truyền của các mẫu tôm ở cấp độ phân tử. Số liệu đƣợc phân tích theo chƣơng trình NTSYSversion 2.0 (theo quy ƣớc 1= xuất hiện băng, 0= không xuất hiện băng). Kết quả nhận đƣợc hệ số tƣơng đồng giữa các mẫu tôm thể hiện ở bảng 3. Hệ số di truyền phản ánh quan hệ di truyền giữa các cặp giống với nhau. Hai mẫu tôm giống nhau về mặt di truyền thì hệ số tƣơng 85 Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ đồng giữa chúng càng lớn và ngƣợc lại hai giống có hệ số tƣơng đồng di truyền thấp thì mối quan hệ di truyền giữa chúng là xa nhau. Từ bảng trên ta thấy hệ số di truyền dao động từ 0.537 – 0.833 tức là cấu trúc hệ gen giữa các mẫu tôm giống khác nhau từ 0.167 – 0.463. Trong đó hệ số đồng dạng lớn nhất (0.833) là hai mẫu tôm ĐS1 và ĐS2. Điều này cho thấy cấu trúc gen của hai mẫu này có sự sai khác rất ít. Hệ số đồng dạng thấp nhất (0.537) đƣợc thể hiện giữa mẫu HP1 với mẫu ĐS1,2 và mẫu QN với NĐ. Chứng tỏ cấu trúc gen giữa các mẫu tôm sai khác xa nhau. Kết quả này có ý nghĩa trong di truyền chọn tạo giống. Từ kết quả phân tích hệ số di truyền chúng tôi xác định đƣợc quan hệ di truyền ở cấp độ phân tử, thể hiện bằng phả hệ của 8 mẫu tôm trên hình 4. Kết quả trên chỉ ra mức độ sai khác về mặt di truyền giữa các mẫu tôm. Các mẫu tôm có hệ số tƣơng đồng cao di truyền cao sẽ đƣơc sắp xếp một nhóm, giữa các nhóm lại có mối liên hệ với nhau. Từ sơ đồ hình cây trên ta thấy sự 77(01): 83 - 87 sai khác về cấu trúc gen của các mẫu nghiên cứu dao động từ 17% - 40%. Phân tích hình cây cho thấy 8 mẫu tôm đƣợc chia thành 2 nhóm chính. Nhóm chính I: chỉ có mẫu NĐ thu thập từ nông trƣờng Dạng Đông – Nam Định . Mẫu này có hệ số di truyền sai khác lớn nhất so với nhóm khác là 0.4 (1-0.6). Nhóm chính II: bao gồm các mẫu HP1, HA, SS, QN, ĐS1, ĐS2 và HP2. Các mẫu này đƣợc chia vào 2 nhóm phụ khác nhau: + Nhóm phụ 1: Bao gồm 3 mẫu HP1, SS và QN. Hệ số sai khác giữa chúng với nhóm phụ còn lại là 0.34. + Nhóm phụ 2: Bao gồm các mẫu HA, ĐS1, ĐS2, HP2. Trong đó 2 mẫu ĐS1 và ĐS2 có hệ số sai khác là 0.17. Đây là hai mẫu có hệ số di truyền sai khác thấp nhất trong phả hệ. Còn hai mẫu HA và HP2 có nguồn từ Hải Phòng có hệ số di truyền sai khác là 0.2 đứng gần nhau trên sơ đồ phả hệ. Bảng 3. Hệ số tƣơng đồng giữa các mẫu tôm nghiên cứu HP1 HP1 1.000 HA 0.685 SS 0.759 QN 0.741 ĐS1 0.537 NĐ 0.500 ĐS2 0.629 HP2 0.667 HA SS QN ĐS1 NĐ 1.000 0.740 0.722 0.704 0.704 0.796 0.796 1.000 0.796 0.556 0.629 0.685 0.648 1.000 0.648 0.537 0.778 0.629 1.000 0.667 0.833 0.574 1.000 0.574 0.611 ĐS2 1.000 0.741 HP2 1.000 Nhánh chính II Nhánh chính I Hình 4. Sơ đồ quan hệ di truyền giữa các mẫu tôm 1: HP1, 2: HA, 3: SS, 4: QN, 5: ĐS1, 6: NĐ, 7: ĐS2, 8: HP2 86 Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ KẾT LUẬN Đã xác định đƣợc quan hệ di truyền của 8 mẫu tôm với 6 mồi ngẫu nhiên và đạt đƣợc kết quả sau: + Đã nhân đƣợc tổng số phân đoạn DNA là 229 phân đoạn có kích thƣớc từ 0.35 – 3.0 kb. + Đã xác định đƣợc 6 mồi sử dụng đều có tính đa hình. Tổng số phân đoạn DNA đa hình thu đƣợc là 45 phân đoạn chiếm 83.3 %. Tỉ lệ các phân đoạn đa hình của các mồi giao động từ 50 % – 100 %. Trong đó có mồi RA142, RA45 và RA143 tỉ lệ các phân đoạn đa hình đạt 100% + Hệ số di truyền sai khác giữa các mẫu tôm HP1, HP2, SS, QN, HA, ĐS1, ĐS2, NĐ giao động 0.17 – 0.4. Từ sự sai khác hệ số di truyền giữa các mẫu tôm sú thấy rằng hai mẫu tôm ĐS1, ĐS2 có quan hệ di truyền gần nhất với hệ số sai khác 0,17. Còn các mẫu tôm NĐ và QN, HP1 và ĐS1 có quan hệ di truyền xa nhất với hệ số sai khác 0,4. 77(01): 83 - 87 (Penaeus monodon) nuôi ở Việt Nam bằng phƣơng pháp microsattlelite. Tạp chí Công nghệ Sinh học 2(3): 315-324 [2]. Quyền Đình Thi, Đào Thị Tuyết, Lê Thị Thu Giang, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Anh Tuấn (2003). Sử dụng microsatterlite, mtRFLP và RAPD để phân tích tính đa hình tôm sú. Tạp chí Công nghệ Sinh học 1: 287-298 [3]. Nguyễn Xuân Thu (2005) Nghiên cứu Hải Sâm kết hợp ao nuôi tôm sú nhằm cải thiện môi trường, Nxb Nông nghiệp. [4]. Ausubel F, Brebt R, Kingston R, Mocra D, Seidman JG, Simth JA, Stiurl (1996) Short protocol in molecular biology, The Journal of Steroid Biochemistry and Molecular Biology 59(3-4), 356 [5]. Bazzicalupo M, Renato F. (1996) The Use of RAPD for generating specific DNA probes for microorganisms. In: Species Diagnostics Protocols. Ed. Clapp, J.P. Humana Press Inc. New Jersey, 155-175. TÀI LIỆU THAM KHẢO [6]. Tanticharoen M, Flegel TW, Meerod W, Grudloyma U, Pisamai N (2008) Aquacultural biotechnology in Thailand: the case of the shrimp industry. Int. J. Biotechnology 10(6), 588-603. [1]. Nguyễn Thị Thảo, Quyền Đình Thi, Đào Thị Tuyết, Lê Thị Thu Giang, Phạm Anh Tuấn (2004) Đánh giá tính đa hình của 3 quần đoàn tôm sú [7]. Welsh J, McClelland M (1990) Fingerprinting genomes using PCR with arbitrary primers. Nucl Acids Res 18(24), 7213 – 7218. SUMMARY STUDY ON GENETIC DIVERSITY OF SHRIMP (PENAEUS MONODON) BY RAPD TECHNIQUE Nguyen Thi Thu Phuong, Nguyen Phu Hung, Hoang Thi Thu Yen College of Sciences, Thai Nguyen University RAPD (Random Amplified Polymorphic DNA) is one technique used in the analysis of diversity, conservation and species identification. In this research, we use the RAPD technique to determine the genetic relationship of the shrimp samples collected in some provinces: Nam Dinh, Quang Ninh, Hai Phong, Thanh Hoa. Shrimp samples collected and preserved in 98% ethanol and stored at – 200C. Use of RAPD technique to analysis of genetic relationships with 6 random primers: RA36, RA40, RA143, RA142, RA45. Results obtained 45 polymorphic fragments in 54 random segments obtained size estimates from 0,35 - 3.0kb. The result is processed by software NTSYS persion2.0. The results of analysis of genetic relationships of eight shrimp sample was divided into two main groups. One major group consists of ND sample coefficient of genetic differences with other groups is 0.17. Left main group consists of 7 samples of shrimp remaining. Keywords: Penaeus monodon, polymorphism, genetic similarity coefficients, RAPD Tel:0912896298 ; Email: yenhoangthithu@gmail.com 87 Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs 88 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 83 - 87 Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 89 - 96 ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ KIỂU THẢM THỰC VẬT PHỤC HỒI TỰ NHIÊN Ở TỈNH BẮC GIANG Nguyễn Văn Hoàn1, Lê Ngọc Công2, Bùi Thị Dậu2, Nguyễn Thị Thu Hà2, Đinh Thị Phƣợng2 1 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang 2 Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Số loài cây tái sinh tự nhiên trong các kiểu thảm thực vật ở Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử (Bắc Giang) sau 6-10 năm tuổi có 262 loài, 189 chi và 87 họ, thuộc 3 ngành thực vật bậc cao có mạch (Pteridophyta, Gymnospermae, Angiospermae). Có 16 họ giàu loài nhất (từ 5 loài trở lên) là Lauraceae, Euphorbiaceae, Poaceae, Fagaceae, Rubiaceae, Melastomataceae, Fabaceae, Moraceae, Vitaceae, Rutaceae, Caesalpiniaceae, Apocynaceae, Arecaceae, Theaceae, Myrtaceae và Dipterocarpaceae, gồm 131 loài (chiếm 50% tổng số loài). Rừng có cấu trúc hai tầng đơn giản. Rừng phục hồi sau khai thác có số loài biến động từ 125-142 loài, cây gỗ tái sinh biến động từ 62-74 loài, mật độ từ 10.596 – 15.947 cây/ha. Rừng phục hồi sau nƣơng rãy số loài biến động từ 119-127 loài, loài cây gỗ tái sinh từ 37 – 49 loài, mật độ từ 6960 – 9813 cây/ha. Các loài thân cỏ giảm từ 27 loài xuống còn 16 loài, các loài dây leo biến động từ 15 đến 22 loài. Từ khoá: Thảm thực vật, tái sinh tự nhiên, sau nương rãy, sau khai thác, cấu trúc ĐẶT VẤN ĐỀ Ở nƣớc ta, nhân dân các dân tộc ít ngƣời sống ở vùng núi cao thƣờng có tập quán du canh, du cƣ, đốt phá rừng làm nƣơng rãy. Tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài cùng với việc khai thác rừng quá mức dẫn tới nguồn tài nguyên cạn kiệt, độ che phủ của rừng bị giảm sút nghiêm trọng. Từ năm 1992 trở lại đây, Nhà nƣớc đã có những chính sách, chiến lƣợc phát triển tài nguyên rừng, nhƣ chƣơng trình 327, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng....để tăng diện tích và độ che phủ của rừng. Trong đó khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh tự nhiên để phục hồi rừng là biện pháp rất quan trọng. Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử và vùng phụ cận thuộc hai huyện Lục Nam và Sơn Động (tỉnh Bắc Giang) có diện tích rừng sau nƣơng rãy và sau khai thác khá lớn (6.716ha, chiếm 30,5% diện tích tự nhiên của khu bảo tồn)[5]. Từ khi đƣợc bảo vệ, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh tự nhiên, rừng đang dần phục hồi trở lại. Trong bài báo này chúng tôi đƣa ra những dẫn liệu cụ thể về thành phần loài, nhóm dạng sống, cấu trúc của một số kiểu thảm thực vật phục hồi sau khai thác và sau nƣơng rãy, góp Tel: 0915462404; Email: conglengockstn@yahoo.com.vn phần làm cơ sở cho việc khoanh nuôi phục hồi rừng có hiệu quả ở tỉnh Bắc Giang. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tƣợng Là thành phần loài, nhóm dạng sống, cấu trúc của các trạng thái thảm thực vật phục hồi từ 6-10 năm trên đất sau nƣơng rẫy và sau khai thác ở khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử và vùng đệm thuộc tỉnh Bắc Giang. Phƣơng pháp Phƣơng pháp ô tiêu chuẩn (OTC): Tại mỗi trạng thái thảm thực vật đặt 3 OTC, mỗi ô có diện tích 400m2 (20m × 20m) để đo đếm các cây gỗ có đƣờng kính từ 6cm trở lên (D1.3 ≥ 6cm), các OTC đặt theo vị trí chân, sƣờn và đỉnh đồi. Trong mỗi OTC lập 9 ô dạng bản, mỗi ô có diện tích 16m2 (4m × 4m) để điều tra cây tái sinh, cây bụi (có chiều cao Hvn ≥ 20cm), dây leo và cây cỏ. Phƣơng pháp tuyến điều tra (TĐT): Các TĐT đƣợc lập rộng 2m đi qua các vùng đại diện cho quần xã nghiên cứu. TĐT nhằm thu mẫu kỹ hơn về thành phần loài thực vật. Phƣơng pháp xác định tên loài thực vật: Sử dụng các tài liệu của Nguyễn Tiến Bân 1997 [1], 2005[2]; Bộ NN&PTNT, 2000 [3]; Phạm Hoàng Hộ, 1991-1993 [4]. 89 Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Thành phần loài Trong các trạng thái thảm thực vật nghiên cứu, chúng tôi thống kê đƣợc 262 loài, 189 chi và 87 họ thuộc ba ngành thực vật bậc cao có mạch: Ngành Khuyết thực vật (Pteridophyta) có 9 loài (3,44% tổng số loài), 7 chi (3,7%), 7 họ (8,05%); Ngành Hạt trần (Gymnospermae) có 3 loài (1,15%), 2 chi (1,06%), 2 họ (2,3%), Ngành Hạt kín (Angiospermae) có 250 loài (95,42%), 180 chi (95,24%), 78 họ (89,65%). Số họ giàu loài (≥ 5 loài) có 16 họ (18,4%) là họ Lauraceae 17 loài, 2 họ Euphorbiaceae, Poaceae mỗi họ có 14 loài, họ Fagaceae 12 loài , họ Rubiaceae 10 loài, họ Melastomataceae 8 loài, 2 họ Fabaceae, Moraceae đều có 7 loài, họ Vitaceae và Rutaceae mỗi họ có 6 loài, các họ có 5 loài là Caesalpiniaceae, Apocynaceae, Arecaceae, Theaceae, Myrtaceae, Dipterocarpaceae, tổng số 131 loài (50% tổng số loài). Số liệu đƣợc ghi ở bảng 1. Trong các trạng thái thảm thực vật các chỉ tiêu về số họ, chi khá dao động (bảng 2), thảm thực vật tái sinh trên 6 năm tuổi số loài, họ, chi tăng dần, vì thời gian này các cá thể mới liên tục đƣợc bổ sung thêm đồng thời lớp cây tái sinh đã phát triển tốt, độ tàn che tƣơng đối cao. Các cây tái sinh cùng loài có sự điều tiết 77(01): 89 - 96 lẫn nhau và giữa các cá thể khác loài có sự cạnh tranh nhau cùng với quá trình tự tỉa thƣa để mở rộng không gian dinh dƣỡng, dẫn tới lớp cây tái sinh giảm dần. Theo nhiều nhà nghiên cứu ở trạng thái rừng có độ tuổi cao, độ tàn che cao số lƣợng loài cây tái sinh giảm dần. Đối với rừng non số lƣợng loài tái sinh chuyển dần từ tăng sang giảm và cuối cùng là ổn định. Cấu trúc thảm thực vật phục hồi theo thời gian Theo thời gian phục hồi, thành phần loài và cấu trúc các trạng thái thảm thực vật đƣợc trình bày ở bảng 3 và bảng 4. a. Thảm thực vật phục hồi 6 năm * Sau nương rãy: Rừng đang ở thời gian phục hồi mạnh có 119 loài, cấu trúc hai tầng, độ che phủ đạt 60%. Tầng cây gỗ có 11 ± 1 loài, độ tàn che 25 30%. Trong mỗi OTC có diện tích 400m2, số lƣợng cây gỗ có sự biến động không lớn. Ô nhiều nhất có 26 cây, ô ít nhất có 19 cây. Trung bình có 22 cây/OTC (tƣơng ứng với mật độ 475 - 650 cây/ha). Mật độ trung bình 558 ± 92 cây/ha, chiều cao trung bình 7,4 m, đƣờng kính 7,7 cm với trung bình tổng tiết diện ngang 2,74 m2/ha. Chủ yếu là những loài Bảng 1. Sự phân bố các họ, chi, loài Họ Ngành Số họ 7 2 69 9 87 Pteridophyta Gymnospermae Angiospermae Dicotyledones Monocotyledones Tổng cộng % 8,05 2,30 79,31 10,34 100 Chi Số chi 7 2 156 24 189 % 3,70 1,06 82,54 12,70 100 Loài Số loài % 9 3,44 3 1,15 217 82,81 33 12,60 100 262 Bảng 2. Họ, chi, loài cây tái sinh trong các thảm thực vật Thời gian (năm) 90 Họ Số họ 6 8 10 53 55 60 6 8 10 66 61 58 Chi % Số chi Sau nƣơng rãy 60,92 96 63,22 95 68,97 102 Sau khai thác 75,86 107 70,11 107 66,67 95 loài % Số loài % 50,79 50,26 53,97 119 122 127 45,42 46,56 48,47 56,61 56,61 50,26 135 142 125 51,53 54,20 47,71 Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ gỗ nhỏ và trung bình cùng tuổi, tiên phong ƣa sáng tạm định cƣ, loài ƣu thế gồm Thầu tấu (Aporosa dioica), Thành ngạnh (Cratoxylum cochinchinense), Dền (Xylopia vielana), Thừng mực (Wrightia tomentosa), Sau sau (Liquidambar formosana), Bông bạc (Vernonia arborea), Hu đay (Trema orientalis), Chẹo (Engelhardtia roxburghiana),... Số loài cây gỗ tái sinh có 37 loài (trong đó cây gỗ nhỏ và trung bình 26 loài, cây gỗ lớn là 11 loài). Các loài chủ yếu là cây con và cây mạ với mật độ 6960 ± 1760 cây/ha. Các loài thuộc họ Cam (Rutaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Tô hạp (Altingiaaceae), họ Xoài (Anacardiaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Hồ đào (Juglandaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Chè (Theaceae), họ Du (Ulmaceae),... Tầng cây bụi có 40 loài, gồm cây bụi và bụi trƣờn có mật độ từ 5769 ± 2702 cây/ha, có chiều cao trung bình từ 1,5 - 2,6 m, độ che phủ 40%. Các loài thuộc các họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Mua (Melastomataceae), họ Bông (Malvaceae), họ Đơn nem 77(01): 89 - 96 (Myrsinaceae), họ Dâu tằm (Moraceae) họ Sim (Myrtaceae), họ Cam (Rutaceae),... có số lƣợng cá thể lớn, gồm các loài nhƣ Đơn nem (Maesa perlarius), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Mua (Melastoma normale), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Ngái (Ficus hirta var, roxburghii), Bọ mẩy (Clerodendrum cyrtophyllum, Clerodendrum fortunatum),... Tầng thảm tƣơi có 42 loài, trong đó có 27 loài gồm cỏ leo, cỏ đứng,... thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae), họ Dền (Amaranthaceae), họ Hoà Thảo (Poaceae), họ Tổ điểu (Aspleniaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Chua me đất (Oxalidaceae), họ Bòng bong (Schizeaceae),... Các loài thƣờng gặp gồm có Chè vè (Miscanthus floridulus), Cỏ chỉ (Eriachne chinensis), Huỳnh thiêm (Sigesbeckia orientalis), Cỏ chít (Thysanolaena maxima), Cỏ ba cạnh (Cyperus trialatus), Cỏ xƣớc (Achyranthes aspera), Bòng bong (Lygodium flexuosum). Dây leo có 15 loài thuộc họ Khoai lang (Convolvulaceae), họ Sổ (Dilleniaceae), họ Khúc khắc (Smilacaceae), họ Trƣờng điều (Connaraceae)... Bảng 3. Thành phần loài cây tái sinh theo nhóm dạng sống Thời gian (năm) Cây gỗ Số loài % 6 8 10 37 47 49 31,09 38,52 38,58 6 8 10 65 74 62 48,15 52,11 49,60 Số loài xuất hiện theo nhóm dạng sống Cây bụi Dây leo Cỏ Số loài % Số loài % Số loài % Sau nƣơng rãy 40 33,61 15 12,61 27 22,69 39 31,97 20 16,39 16 13,12 40 31,50 22 17,32 16 12,60 Sau khai thác 33 24,44 16 11,85 21 15,56 32 22,54 17 11,97 19 13,38 28 22,40 17 13,60 18 14,40 Tổng Số loài % 119 122 127 100 100 100 135 142 125 100 100 100 Bảng 4. Cấu trúc thảm thực vật phục hồi Thời gian (năm) Số loài 6 8 10 11 ± 1 13 ± 2 15 ± 1 6 8 10 14 ± 1 19 ± 4 17 ± 3 Tầng cây gỗ Mật độ cây gỗ tái sinh Mật độ D 1,3 ≥ H vn (Cây/ha) cây gỗ 6(cm) (m) (Cây/ha) Sau nƣơng rãy 558±92 7,7 7,4 6960±1760 1150±100 8,4 8,9 9220±1540 1292±417 9,9 9,1 9813±2587 Sau khai thác 1725±525 11,2 13,9 15947±1707 2150±650 12,4 14,1 14800±1680 2075±325 13,7 15,1 10596±1271 Tầng cây bụi Mật độ Hbụi ≥ cây bụi 20cm (Cây/ha) 5769±2702 5076±1191 3422±222 1,5-2,6 1,9-2,7 1,3-2,1 6040±2200 3920±1520 3107±1093 2,3-2,7 2,1-2,3 1,7-2,2 91 Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Những loài có số lƣợng cá thể lớn nhƣ Kim cang (Smilax china, Smilax ferox), Bìm bìm (Merremia bimbim), Bƣơm bƣớm (Mussaenda cambodiana), Đùm đũm (Rubus alcaefolius), Chặc chìu (Tetracera asiatica),... Độ nhiều thảm tƣơi ở Cop3. * Sau khai thác: Thống kê đƣợc 135 loài, độ che phủ 75%, có cấu trúc 2 tầng. Tầng cây gỗ có 14 ± 1 loài, độ tàn che 50%. Trong mỗi OTC có diện tích 400 m2, số lƣợng cây gỗ biến động lớn từ 48 90 cây, trung bình có 69 cây/OTC (tƣơng ứng với mật độ từ 1200 - 2250 cây/ha). Mật độ trung bình 1725 ± 525 cây/ha, đƣờng kính là 11,2 cm, chiều cao 13,9 m đạt tổng tiết diện ngang trung bình là 21,52m2/ha. Loài ƣu thế gồm Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Trâm tía (Syzygium cinereum), Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Mán đỉa (Archidendron lucidum), Côm trâu (Elaeocarpus floribundus), Trám chim (Canarium tonkinense),... Cây gỗ tái sinh có 65 loài, trong đó cây gỗ nhỏ và trung bình có 44 loài, gỗ lớn có 21 loài, mật độ 15.947 ± 1707 cây/ha. Loài cây tái sinh chủ yếu thuộc các họ Tô hạp (Altingiaaceae), họ Xoài (Anacardiaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Hồ đào (Juglandaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Côm (Elaeocarpaceae), họ Trám (Burseraceae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Dâu tằm (Moraceae),... Tầng cây bụi có 33 loài, mật 6040 ± 2200 cây/ha, chiều cao từ 2,3 - 2,7 m, độ che phủ 30%, các loài có số lƣợng cá thể nhiều gồm Trọng đũa (Ardisia lindleyana), Bền bệt (Camellia sp.), Kháo bụi (Machilus oreophila), Bồng bồng (Calotropis gigantea), Sầm trắng (Memecylon edule), Sầm (Memecylon scutellatum), Phèn đen (Phyllanthus reticulatus), Béo đen (Goniothalamus vietnamensis), Mua (Melastoma normale), Cứt chuột (Brucea mollis), Xuyên tiêu (Zanthoxylum nitidum),... Các loài cây bụi ƣa ẩm thuộc họ Na (Annonaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae), họ Thiên lý (Asclepiadaceae), họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Dâu tằm (Moraceae),... 92 77(01): 89 - 96 Thảm tƣơi gồm dây leo có 16 loài, các loài thƣờng gặp chủ yếu thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Nho (Vitaceae), họ Trƣờng điều (Connaraceae), họ Tiết dê (Menispermaceae), họ Khoai lang (Convolvulaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Mao lƣơng (Ranunculaceae),... Các loài phổ biến nhƣ Mây rừng (Calamus rhabdocladus), Kim cang (Smilax davidiana, Smilax china, Smilax ferox), Dây gắm (Gnetum latifolium), Chặc chìu (Tetracera asiatica), Kim ngân (Lonicera dasystyla), Dây giun (Quisqualis indica), Dây cóc (Derris elliptica), ... Cây thân cỏ có 21 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ Sa nhân (Amomum xanthioides), Dƣơng xỉ (Dryopteris sp.), Phong lan đất (Malaxis ophrydis), Cỏ ba cạnh (Cyperus trialatus), Rau dớn (Callipteris esculenta), Cỏ dùi trống (Eriocaulon sexangulare), Cỏ gừng (Panicum repens), Cỏ mật (Chloris barbata), Cỏ chít (Thysanolaena maxima), Cỏ chỉ (Eriachne chinensis), Cỏ đắng (Paspalum longifolium),... thuộc các họ Rau dền (Amaranthaceae), họ Hoà thảo (Poaceae), họ Tổ điểu (Aspleniaceae), họ Khoai lang (Convolvulaceae), họ Hoa tán (Apiaceae), họ Dùi trống (Eriocaulaceae), họ Hành (Liliaceae), họ Hồ tiêu (Piperaceae), họ Gừng (Zingiberaceae)... với độ nhiều Cop2. b. Thảm thực vật phục hồi 8 năm * Sau nương rãy: Rừng có cấu trúc hai tầng với độ che phủ 70%, chúng tôi thống kê đƣợc 122 loài. Số loài cây gỗ có 13 ± 2 loài, độ tàn che 50%. Trong mỗi ô đo đếm có diện tích 400m2 số cây và số loài cây gỗ biến động không lớn, số lƣợng cây gỗ từ 42 - 50 cây, trung bình có 46 cây/OTC (tƣơng ứng với mật độ từ 1050 1250 cây/ha). Mật độ trung bình 1150 ± 100 cây/ha, có chiều cao trung bình 8,9 m, đƣờng kính bình quân là 8,4 cm, với tổng tiết diện ngang trung bình là 5,04 m2/ha. Chủ yếu vẫn là những loài gỗ nhỏ và trung bình nhƣ ở thời gian phục hồi 6 năm. Ở các OTC xuất hiện những loài cây ƣa sáng định cƣ có đời sống dài tham gia vào tổ thành tầng cây gỗ nhƣ Lim vang (Peltophorum pterocarpum), Bông bạc (Vernonia arborea), Trám trắng (Canarium album), Bứa (Garcinia oblongifolia),.... Loài cây gỗ tái sinh có 47 Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ loài, số loài cây gỗ nhỏ và trung bình là 32 loài, gỗ lớn là 15 loài, mật độ là 9220 ± 1540 cây/ha, chủ yếu là những loài cây có đời sống dài nhƣng lúc nhỏ cần che bóng, thuộc các họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Trám (Burseraceae), họ Hồ đào (Juglandaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Sổ (Dilleniaceae), họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Du (Ulmaceae),.... Tầng cây bụi có 39 loài, mật độ trung bình 5076 ± 1191 cây/ha, chiều cao trung bình từ 1,9 - 2,7 m, độ che phủ 30%, Các loài cây bụi ƣa ẩm thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Nhót (Elaeagnaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), họ Chè (Theaceae), họ Na (Annonaceae),.... gồm các loài nhƣ Chè tƣớc (Lindera tonkinensis), Phèn đen (Phyllanthus reticulata), Nhót rừng (Elaeagnus bonii), Sầm (Memecylon scutellatum), Găng (Randia spinosa), Bọ mẩy (Clerodendrum fortunatum), Thừng mực là nhỏ (Wrightia laevis), Trọng đũa (Ardisia lindleyana), Xuyên tiêu (Zanthoxylum nitidum), Bền bệt (Camellia sp.) Móng rồng (Artabotrys hexapetalus),... Tầng thảm tƣơi có 16 loài thuộc họ Tổ điểu (Aspleniaceae), họ Rau dền (Amaranthaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Cói (Cyperaceae), họ Củ nâu (Dioscoreaceae), họ Mã tiền (Loganiaceae), họ Hồ tiêu (Piperaceae), họ Hoà thảo (Poaceae), họ Cà phê (Rubiaceae)...Các loài thƣờng gặp là Cỏ ba cạnh (Cyperus trialatus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ gừng (Panicum repens), Dƣơng xỉ (Dryopteris filix-mas), Củ nâu (Discorea cirrhosa), Huỳnh thiêm (Sigesbeckia orientalis), Hƣơng bài (Vetiveria zizanioides), Cỏ xƣớc (Achyranthes aspera), Lá ngón (Gelsemium elegans), Trầu rừng (Piper gymnostachyum), Cỏ lá tre (Centotheca latifolia), Ba kích (Morinda officinalis),... Dây leo có 20 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ Kim cang (Smilax davidiana, Smilax china, Smilax ferox), Dây mây nƣớc (Calamus amarus), Dây gắm (Gnetum latifolium), Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria), Sâm lam (Millettia speciosa), Dây cóc (Derris 77(01): 89 - 96 elliptica), Nắm cơm (Kadsura coccinea), Chặc chìu (Tetracera asiatica), Dây mấu (Bauhinia bracteata), Dây lang rừng (Merremia staphylina),...thuộc các họ Khúc khắc (Smilacaceae), họ Nho (Vitaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Sổ (Dilleniaceae), họ Khoai lang (Convolvulaceae), họ Trƣờng điều (Connaraceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Mao lƣơng (Ranunculaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Ngũ vị (Schisandraceae), họ Tiết dê (Menispermaceae), họ Cau (Arecacceae),... với độ nhiều Cop1. * Sau khai thác: Trạng thái này chúng tôi thống kê đƣợc 142 loài, độ che phủ là 80%, cấu trúc hai tầng, tầng cây gỗ gồm 19 ± 4 loài, độ tàn che 70%. Trong mỗi OTC có diện tích 400m2, số lƣợng cây gỗ biến động rất lớn từ 60 - 112 cây, trung bình có 86 cây/OTC (tƣơng ứng với mật độ từ 1500 - 2800 cây/ha). Mật độ 2150 ± 650 cây/ha, đƣờng kính là 12,4 cm, chiều cao là 14,1 m với tổng tiết diện ngang trung bình là 29,87 m2/ha. Tổ thành tầng cây gỗ có các loài nhƣ Kháo vàng (Machilus bonii), Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Dẻ sồi (Lithocarpus bacgiangensis), Cứt ngựa (Archidendron eberhardtii), Trâm tía (Syzygium cinereum), Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Côm trâu (Elaeocarpus floribundus),... Cây gỗ tái sinh có 74 loài, mật độ 14.800 ± 1680 cây/ha (gỗ nhỏ và trung bình 50 loài, gỗ lớn 24 loài). Thành phần loài cây tái sinh chủ yếu thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Hồng xiêm (Sapotaceae), họ Bứa (Clusiaceaeceae), họ Trám (Burseraceae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Trinh nữ (Mimosaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Tô hạp (Altingiaaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Trôm (Sterculiaceae),... Tầng cây bụi có 32 loài, mật độ 3920 ± 1520 cây/ha, chiều cao từ 2,1 - 2,3 m, độ che phủ 30%. Các loài có số lƣợng cá thể nhiều nhƣ Bền bệt (Camellia sp.), Trọng đũa (Ardisia lindleyana), Móng rồng (Artabotrys hexapetalus), Phèn đen (Phyllanthus reticulatus), Nhót rừng (Elaeagnus bonii), Sầm (Memecylon scutellatum), Niệt gió (Wikstroemia indica), Đơn nem (Maesa 93 Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ perlarius), Sang (Zanthoxylum nitidum),... Các loài cây bụi chủ yếu thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae), họ Trầm (Thymelaeaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Nhót (Elaeagnaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Chè (Theaceae),... Dây leo có 17 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ Dây đau lƣng (Tinospora sinensis), Kim cang (Smilax davidiana, Smilax china, Smilax ferox), Chặc chìu (Tetracera asiatica), Dây cóc (Derris elliptica), Mây hèo (Calamus pseudoscutellaris), Bánh nem (Bowringia callicarpa), Dây mật (Derris elliptica), Sâm lam (Millettia speciosa), Trầu rừng (Piper sarmentosum), Chè dây (Ampelopsis cantoniensis), Dây quạch (Bauhinia khasiana),... Cỏ có 19 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ Cỏ ba cạnh (Cyperus trialatus), Dƣơng xỉ (Dryopteris filix-mas), Phong lan đất (Malaxis ophrydis), Chè vè (Miscanthus floridulus), Sa nhân (Amomum xanthioides), Cỏ mật (Chloris barbata), Cao cẳng lá mác (Ophiopogon dracaenoides),...thuộc họ Rau dền (Amaranthaceae), họ Hành (Liliaceae), họ Gừng (Zingiberaceae), họ Tổ điểu (Aspleniaceae), họ Cói (Cyperaceae)... với độ nhiều cop1. c. Thảm thực vật phục hồi 10 năm * Sau nương rãy: Rừng có cấu trúc hai tầng, độ che phủ đạt 90% với 127 loài thực vật. Tầng cây gỗ có 15 ± 1 loài, độ tàn che 80%. Trong mỗi OTC số lƣợng cây gỗ biến động lớn, ô nhiều nhất có 69 cây, ô ít nhất có 35 cây, trung bình trong 1 ô có 52 cây (tƣơng ứng với mật độ từ 875 1725 cây/ha). Mật độ trung bình là 1.292 ± 417 cây/ha, chiều cao trung bình 9,1 m, đƣờng kính bình quân là 9,9 cm, đạt tổng tiết diện ngang trung bình là 9,35 m2/ha. Tổ thành loài chủ yếu gồm các loài nhƣ Bông bạc (Vernonia arborea), Kháo vàng (Machilus bonii), Lim vang (Peltophorum pterocarpum), Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Bứa (Garcinia oblongifolia), Chẹo (Engelhardtia roxburghiana), Sơn ta (Toxicodendron succedanea),...Cây gỗ tái sinh có 49 loài (trong đó loài gỗ lớn có 19 loài, gỗ nhỏ và trung bình là 30 loài), mật độ là 9813 ± 2587 94 77(01): 89 - 96 cây/ha, thuộc các họ Long não (Lauraceae), họ Bứa (Clusiaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Hồng xiêm (Sapotaceae), họ Xoài (Anacardiaceae), họ Hồ đào (Juglandaceae), họ Trám (Burseraceae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Trinh nữ (Mimosaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Cam (Rutaceae),... Tầng cây bụi có 40 loài với mật độ 3422 ± 222 cây/ha, chiều cao trung bình từ 1,3 - 2,1 m, độ che phủ 20%, chủ yếu là những loài cây ƣa ẩm, chịu bóng thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Chè (Theaceae),... Các loài có số lƣợng cá thể nhiều nhƣ Phèn đen (Phyllanthus reticulatus), Bền bệt (Camellia sp.), Móng rồng (Artabotrys hexapetalus), Găng (Randia spinosa), Béo đen (Goniothalamus vietnamensis), Trọng đũa (Ardisia lindleyana), Đơn đỏ (Excoecaria cochinchinensis), Hoa dẻ (Desmos chinensis), Sầm (Memecylon scutellatum), Thừng mực trâu (Kibatalia laurifolia), Xuyên tiêu (Zanthoxylum nitidum), Bùm bụp (Mallotus barbatus), Nhót rừng (Elaeagnus bonii), Nho đất (Vitis balansaeana), Cứt chuột (Brucea mollis),... Tầng thảm tƣơi có 16 loài, thuộc các họ nhƣ Cúc (Asteraceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Rau dền (Amaranthaceae), họ Tổ điểu (Aspleniaceae), họ Cói (Cyperaceae), họ Củ nâu (Dioscoreaceae), họ Hành (Liliaceae), họ Hoà thảo (Poaceae), họ Gai (Urticaceae), họ Gừng (Zingiberaceae),... Các loài thƣờng gặp là Cỏ ba cạnh (Cyperus trialatus), Sa nhân (Amomum xanthioides), Cỏ lác (Cyperus cephalotus), Cỏ lá tre (Centosteca latifolia), Cỏ rác (Panicum sarmentosum), Củ nâu (Dioscorea cirrhosa), Sa nhân (Amomum xanthioides), Cỏ lông nƣơng (Polytrias indica), Cỏ xƣớc (Achyranthes aspera), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Cao cẳng (Ophiopogon dracaenoides), Hƣơng bài (Dianella ensifolia),... Dây leo có 22 loài, các loài có số lƣợng cá thể nhiều nhƣ: Chặc chìu Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ (Tetracera asiatica), Kim cang (Smilax davidiana, Smilax china, Smilax ferox), Sâm nam (Millettia speciosa), Dây ông lão (Clematis armandi), Ruột gà (Clematis chinensis), Khế rừng (Rourea ssp. Microphylla), Dây gắm (Gnetum latifolium), Dây mấu (Bauhinia bracteata), Chè dây (Ampelopsis cantoniensis), Dây máu (Sargentodoxa cuneata), Khúc khắc (Heterosmilax gaudichaudiana), Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria), Ngạnh khế (Cnestis palala),... thuộc các họ nhƣ Trúc đào (Apocynaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Sổ (Dilleniaceae), họ Nho (Vitaceae), họ Khoai lang (Convolvulaceae), họ Trƣờng điều (Connaraceae), họ Ngũ vị (Schisandraceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Mao lƣơng (Ranunculaceae), họ Huyết đằng (Sargentodoxaceae), họ Tiết dê (Menispermaceae), họ Gắm (Gnetaceae), họ Cau (Arecaceae), họ Khúc khắc (Smilacaceae), họ Gai (Urticaceae),... với độ nhiều mức Sp. * Sau khai thác: Trạng thái này có 125 loài, cấu trúc 2 tầng, độ che phủ 95%. Tầng cây gỗ có 17 ± 3 loài, độ tàn che 80%. Trong mỗi OTC số lƣợng cây gỗ biến động từ 70 - 96 cây, trung bình trong 1 ô có 83 cây (tƣơng ứng với mật độ từ 1750 – 2400 cây/ha). Mật độ 2075 ± 325 cây/ha, chiều cao trung bình 15,1 m, đƣờng kính 13,7 cm, đạt tổng tiết diện ngang là 38,10 m2/ha. Chủ yếu là những loài có kích thƣớc lớn và trung bình nhƣ Côm trâu (Elaeocarpus floribundus), Cứt ngựa (Archidendron chevalieri), Lim xanh (Erythrophleum fordii), Dẻ sồi (Lithocarpus bacgiangensis), Vạng trứng (Endospermum chinense), De vàng (Lithocarpus tubulosus), Xoan đào (Prunus arborea),...Cây gỗ tái sinh có 62 loài, mật độ 10596 ± 1271 cây/ha (gỗ lớn là 20 loài, gỗ nhỏ và trung bình là 42 loài). Các loài thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Trám (Burseraceae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Trôm (Sterculiaceae), họ Mộc lan (Magnoliaceae),... 77(01): 89 - 96 Tầng cây bụi có 28 loài, mật độ 3107 ± 1093 cây/ha, chiều cao từ 1,7- 2,2m, độ che phủ 10%, các loài thƣờng gặp nhƣ Trọng đũa (Ardisia lindleyana), Xuyên tiêu (Zanthoxylum nitidum), Kháo bụi (Machilus oreophila), Hoa móng rồng (Artabotrys hexapetalus), Béo trắng (Gomphandra mollis), Bền bệt (Camellia sp), Chè tƣớc (Lindera tonkinensis), Phèn đen (Phyllanthus reticulatus), Niệt gió (Wikstroemia indica), Bọ mẩy trắng (Clerodendrum cyrtophyllum), Đơn nem (Maesa perlarius),... Dây leo có 17 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ: Kim cang (Smilax davidiana, Smilax china, Smilax ferox), Mây hèo (Ampelopsis cantoniensis), Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria), Dây gắm (Gnetum latifolium), Chè dây (Ampelopsis cantoniensis), Chặc chìu (Tetracera asiatica), Huyết đằng (Sargentodoxa cuneata)... Cỏ có 18 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ: Rau rớn (Callipteris esculenta), Phong lan đất (Malaxis ophrydis), Lá ngón (Gelsemium elegans), Cao cẳng (Ophiopogon latifolius), Dƣơng xỉ (Dryopteris sp.), Sa nhân (Amomum xanthioides),...Ngoài ra còn gặp các loài thuộc họ Cúc (Asteraceae), họ Thiên lý (Asclepiadaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cói (Cyperaceae), họ Hoà thảo (Poaceae), họ Gừng (Zingiberaceae),...với độ nhiều mức Sp. KẾT LUẬN Thảm thực vật phục hồi ở Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử (Bắc Giang) khá đa dạng về thành phần loài, thời gian phục hồi từ 6 – 10 năm có 262 loài, 189 chi của 87 họ, thuộc 3 ngành thực vật (Pteridophyta, Gymnospermae, Angiospermae). Họ giàu loài nhất (≥5 loài) có 16 họ gồm Lauraceae, Euphorbiaceae, Poaceae, Fagaceae, Rubiaceae, Melastomataceae, Fabaceae, Moraceae, Vitaceae, Rutaceae, Caesalpiniaceae, Apocynaceae, Arecaceae, Theaceae, Myrtaceae, Dipterocarpaceae (chiếm 18,4% tổng số họ) với 131 loài (chiếm 50% tổng số loài). Cấu trúc thảm thực vật phục hồi đơn giản gồm hai tầng. Rừng phục hồi sau khai thác có số loài biến động từ 125-142 loài, cây gỗ tái sinh biến động từ 62-74 loài, mật độ từ 10.596 – 15.947 cây/ha. Tầng cây cao số loài 95 Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ từ 14-19 loài, mật độ từ 1725 – 2075 cây/ha, độ tàn che từ 40 – 80%. Tầng cây bụi có từ 28 – 33 loài, mật độ từ 3107 – 6040 cây/ha, độ che phủ giảm từ 30% xuống 10%. Rừng phục hồi sau nƣơng rãy số loài biến động từ 119127 loài, loài cây gỗ tái sinh từ 37 – 49 loài, mật độ từ 6960 – 9813 cây/ha. Tầng cây cao từ 11 – 15 loài, mật độ từ 558 – 1292 cây/ha, độ tàn che tăng dần từ 25 – 60%. Tầng cây bụi từ 39 – 40 loài, mật độ từ 3422 – 5769 cây/ha, độ che phủ giảm dần từ 40 xuống 20%. Các loài cỏ giảm dần khi rừng đƣợc phục hồi từ 27 loài xuống còn 16 loài, dây leo biến động trong khoảng từ 15 – 22 loài. 77(01): 89 - 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Tiến Bân (1997), Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [2]. Nguyễn Tiến Bân (2005), Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. [3]. Bộ NN & PTNT (2000), Tên cây rừng Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [4]. Phạm Hoàng Hộ (1991-1993), Cây cỏ Việt Nam, Nxb trẻ TP Hồ Chí Minh. [5]. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2001), Dự án xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2001-2010. SUMMARY CHARACTERISTICS OF SOME NATURAL FOREST REHABILITATION IN BAC GIANG PROVINCE Nguyen Van Hoan1, Le Ngoc Cong2*, Bui Thi Dau2, Nguyen Thi Thu Hà2, Dinh Thi Phuong2 1 Department of Agriculture and Rural Development Bac Giang Province 2 College of Education, Thai Nguyen University The species composition of the natural regenerative vegetation in Bac Giang province. Restored forests after 6 – 10 years there are 262 species, belonging to 189 genus of 87 families. The most species-rich families are Lauraceae, Euphorbiaceae, Poaceae, Fagaceae, Rubiaceae, Melastomataceae, Fabaceae, Moraceae, Vitaceae, Rutaceae, Caesalpiniaceae, Apocynaceae, Arecaceae, Theaceae, Myrtaceae, Dipterocarpaceae. These families occupying 50% total of species in vegetation. The structure of the regenerative vegetation is quite simple, comprise two layers. According to the regenerative time, the regenerative vegetation after clear cutting has the number of species from 125 to 142 species. After-exploitation forest offers the number of regenerative wood species from 62 to 74 species, the density of regenerative trees from 10596 to 15947 trees/ha. In wood tree layer, the species number from 14 to 19 species, the density of wood trees from 1725-2075 trees/ha, vegetation cover increases from 40% - 80%. In shrub layer, the species number from 28 - 33 species, the density from 3107 – 6040 trees/ha, Vegetation decreases from 30% to 10%. Restored forest after shifting cultivation area the number of species from 119 to 127 species, species of regenerative wood species from 37 - 49 species, the density of wood trees from 6960 – 9813 trees/ha. The layer of wood trees from 11 to 15 species, the density from 558 to 1292 trees/ ha, the cover of this layer increases from 25% - 60%. Shrub has the number of species from 39 to 40 species, the density from 3422 – 5769 trees/ha, the cover reduces from 40% to 20%. The density of regenerative trees from 5397 - 7031 trees/ha. Key words: Flora, natural regenetion, after shifting cultivation, after extraction, structure * Tel: 0915462404; Email: conglengockstn@yahoo.com.vn 96 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 - 102 FOREST LAND-USE CHANGE IN NGOC PHAI COMMUNE, CHO DON DISTRICT, BAC KAN PROVINCE, VIETNAM (1990-2005) Dam Viet Bac, Dam Xuan Van* College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University SUMMARY The study was conducted at the Ngoc Phai Commune, Cho Don District, Bac Kan Province, Vietnam. The aimed to determine land-use changes (LUCs) for the last 15 years (1990-2005) of Doi Moi (renovation) ra in the mountainous region of northern Vietnam. For spatial data, the Geographic Information System (GIS) was applied as a tool for determining LUCs. Three land-use maps (1990, 1998 and 2005) were overlaid and grouped into two intervals (1990-1998 and 19982005). Several thematic maps were created such as slope, elevation, drainage and road maps. Moreover, the study site was divided into 204-grid cells with 500 m x 500 m/cell or 25 ha/cell to identify and quantity the area and location of the land-use changes associated with the grid cell level. For the period 1990-1998, the total area of forest degradation was 109.31 ha. This occurred at 15°-35° slope, 500-700 masl and at a distance of 500-1000m from location of LUCs to the main road. Forest restoration for the same time period was 108.30 ha mainly at 15°-35° slope, 400-700 mal and at a distance of 100-250 m followed by 250-500 m and 500-750 m. For the period 19982005, forest degradation had a total area of 625.47 ha mainly at 15°-35°slope, 400-600 masl and at a distance of 250-500 m followed by 500-750 m and 750 – 1000 m. Forest restoration for the same time period was 657.94 ha mainly at 15°-35° slope, 400-700 mal and at a distance of 250-500 m followed by 500-750 m and 750-1000 m. Keywords: Land use change, mountainous region, northern Vietnam INTRODUCTION* Three-quarters of Vietnam‟s total land area of 33.104 million hectares is occupied by hills and mountains. The remaining one-third is home to the national population which have undergone rapid changes following socioeconomic developments. Forest and land, the main sources of local production system, has been impacted severely over the last decades. Researches on land-use and land-use planning have been carried out in Northern Vietnam but have not fully looked into the driving forces of land-use change as influenced by renovation policies. For this reason, research in this area was conducted. The study attempted to review the biophysical and socio-economic conditions, estimate land-use change across three-time periods by using Geographic Information System (GIS), identify the driving forces of land-use change both at the local and exogenous levels and create GIS database. Results of the study would contribute to policymakers in creating * Tel: 0982166696; Email: damxuanvan@yahoo.com guidelines relevant to forestry and rural development sectors. MATERIALS AND METHODS GIS Processing for Analysis of Land-Use Changes For spatial data, existing digital GIS files of land-use maps (1990, 1998, and 2005) from SAM Project and Natural and Environmental Office of Bac Kan province were used. This was combined with ground verification generated during the time of data gathering by intersecting land-use themes 1990-1998, and 1998–2005. Aside from these, topographical, drainage and slope maps were interpreted in Philippines and intersected with several thematic maps by ArcGIS 9.0. Finally, grid cell level (25 ha/cell) for the study site was made. For temporal data, all the attribute tables on Arcview GIS 3.2a and AcrGIS 9.0 were exported to dBase IV files of Excel program, and then to SPSS 12.0 for statistical analysis of output tables. Means, frequencies, ranges, percentages land-use change matrices and charts were used to compare the data of land97 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ use change areas of eight forest and land-use types; (dense forest, open forest, shrubs, upland crops, grasslands, mosaic and other lands). Descriptive statistics was used to analyze data on biophysical and socio-economic conditions of the study site. The results were presented as percentages, averages or means, ranges and graphs, where applicable. RESULTS AND DISCUSSION Determinants of Land-Use Changes The change in land-use was determined by overlaying land-use maps of 1990-1998, and 1998-2005. Overlaid maps was done in ArcView GIS 3.2a and AcrGIS 9.0. The results of overlaid maps are shown in Figure 1 and Figure 2. Dynamics of Land-Use Changes The land-use changes in Ngoc Phai for the past eight-year period are shown in Table 1. The data indicates that forestland and shrub areas have small reduction in the area of dense forest. It accounted for –191.02 ha or a -14.58% drop while there was a steady rise between 1990 and 1998, +395 ha or 73.84%. In the open forest and shrublands, There was a reduction of –87.18 ha or -7.52%. There was a marked increase in the area of paddy Figure 1. Land-use change map, 1990-1998 98 77(01): 97 – 102 field with +40 ha or 29.95%. In upland crops, a reduction was also observed, –139 ha or 34.50%. A decline of –21 ha or -10.34% in grasslands was also noted. Between 1998-2005, a high rate of forest disturbance occurred in the dense forest; the forest decreased by –103.21 ha or -9.22%, followed by shrubs with -110.91 ha or 10.34%. The open forest declined by –2.51 ha or -0.27% and the mosaic lands by –3.32 ha or -0.29%. For the other kinds of landuses, sharp increases were observed. In the upland crops, an increase of +110.88 ha or 41.78 and in paddy field with 62.76 ha or +36.10%. Moreover, a rise of +29 ha or +41.89% in other lands and +16.62 ha or +9.22 % in the grasslands was also realized. Overall, the rate of forest disturbance in the period of 1990-1998 were as follows: dense forest declined by -23.87 ha or -1.82% annually and shrublands by –10.89 ha or 0.94% annually. During 1998-2005 period, forest degradation was down to –14.74 ha or -1.32% annually in the dense forest, and 15.84 ha or -1.47% annually in the shrublands. However, there was an increase in the open forest during first period of +9.23 ha or +0.31% annually (Table 1). Figure 2. Land-use change map, 1998-2005 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 - 102 Table 1. Land-use changes across three-time periods TYPES OF LAND-USE Dense Forest Open Forest Shrubs Paddy Field Upland Crops Grasslands Mosaic Other Lands 1990 1998 2005 CHANGE IN 1990-1998 CHANGE IN 1998-2005 (ha) (ha) (ha) (ha) % (ha) % 1310.14 1119.12 1015.91 -191.02 -14.58 -103.21 -9.22 535.97 931.71 929.20 +395.74 +73.84 -2.51 -0.27 1159.52 1072.34 961.43 -87.18 -7.52 -110.91 -10.34 133.8 173.87 236.63 +40.07 +29.95 +62.76 +36.10 405.15 265.37 376.25 -139.78 -34.50 +110.88 +41.78 201.3 180.30 196.92 -21.00 -10.43 +16.62 +9.22 369.86 359.86 356.54 -10.00 -2.70 -3.32 -0.92 57.72 70.88 100.57 +13.16 +22.80 +29.69 +41.89 *Figures preceed with + sign indicates an increase; - sign indicates a decrease Table 2. Transition matrix of land-use change for 1990 – 1998 1990 Dense Open Shrubs Forest Forest Paddy Field 1998 Upland Crops Grass Land 1990 Mosaic Other Land TOTAL Dense Forest 1110.83 199.31 1310.14 Open Forest 527.69 535.97 100.01 1059.51 1159.52 Shrubs 8.29 Paddy Field Upland Crops 99.71 Grass Land 5.00 Mosaic Other Lands 12.83 1998 TOTAL 1119.12 931.71 1072.34 Change in (ha) -191.02 +395.74 -87.18 Change in (%) -14.58 +73.84 -7.52 133.80 40.08 265.37 180.29 359.86 173.87 +40.08 +29.95 Process of Land-Use Transitions Period 1990-1998 (During Forest Land Allocation Program). Table 2 shows the transition matrix where 199.31 ha or 15.21% of the total of dense forest are was converted to open forest; a slight conversion in open forest to dense forest (8.29 ha or 1.55%). For shrubs, 100.01 ha were converted to open forest and 1059.51 ha or 91.37% remained unchanged. The rate of land-use change between 19901998 (Table 2) shows that there was no conversion to paddy fields during 1990-1998. Paddy field remained its original area of 133.80 ha. A total of 40.08 ha (3.83%) of upland crops was converted to paddy field and 99.71 ha (24.61%) to open forest. A small 265.37 -139.79 -34.50 180.29 359.86 -21.00 -10.00 -10.43 -2.70 16.00 10.00 44.89 70.89 +13.17 +22.82 133.80 405.15 201.30 369.86 57.72 4173.45 area of grassland, 5.00 ha (2.48%) was converted to open forest and 16.00 ha (7.95%) to other lands. Period 1998-2005 (After Forest Land Allocation Program). The transition matrix (Table 3) shows the land-use change over a period of seven years. The dense forest area was transformed into shrubs area by 290.25 ha or 25.94% of total dense forest land. Other lands increased by 61.79 ha or 5.52 %, grasslands by 16.68 ha or 1.49%, paddy fields by 7.16 ha or 0.64% and mosaic lands by 0.46 ha or 0.04%. The high rate of forest disturbance was from conversion of 124.52 ha open forest (13.36%) into shrubs, conversion of 169.24 ha of open forest (18.16%) into dense forest, 106.39 ha of open forest 99 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ (11.42%) into upland crops, 11.34 ha of open forest (1.22%) into paddy fields. The other converted areas of open forestland were less than 1%. 77(01): 97 – 102 to paddy fields. There were no change to both the paddy field and upland crops. Paddy fields remained at173.87 ha and upland crops remained at 265.37 ha or 100% of their original lands. Grasslands were reduced drastically to 14.10 ha or 7.82%, with 130.87 ha or 72.58% of grasslands transformed into shrublands, 20.80 ha of grasslands (11.54%) changed to dense forest, 9.27 ha or 5.14% of grasslands changed into other land-use category, and 3.61 ha or 2.00% of grasslands changed to upland crops (Table 3). There was a dramatic reduction shrublands. Only 381.39 ha or 35.57% devoted to shrubs remained its original area, with 415.86 or 38.37% of shrublands converted to open forest land, with 156.84 ha or 14.63% of shrublands converted to grasslands, 72.81 ha or 6.78 % shrublands changed to dense forest and 33.15 ha or 3.09% of shrublands diverted Table 3. Transition matrix of land-use change, 1998–2005 2005 1998 Dense Forest Open Forest Shrubs Paddy Upland Field Crops 1998 TOTAL Grass Land Mosaic Other Land 16.68 0.46 61.79 1119.12 Dense Forest 742.77 290.25 7.16 Open Forest 169.24 513.34 124.52 11.34 106.39 4.30 2.56 0.02 931.71 Shrubs 72.81 33.15 0.68 156.84 10.91 0.69 1072.34 415.86 381.39 Paddy Field 173.87 Upland Crops Grass Land 265.37 20.8 Mosaic Other Lands 2005 TOTAL Change in (ha) Change in (%) 130.87 1.43 13.98 5.68 3.61 265.37 14.10 0.22 9.27 180.3 0.81 332.7 6.69 359.86 10.29 20.42 4.00 0.20 4.19 9.69 22.10 1015.91 929.20 961.43 236.63 376.25 196.92 356.54 100.56 -103.21 -2.51 -110.91 +62.76 +110.88 16.62 -3.32 29.68 -9.22 -0.27 -10.34 +36.10 +41.78 9.22 -0.92 70.88 4173.45 41.87 program, 12 important land- use changes were found consistent in both sub-periods. Net Changes Detected by PostClassification Method Table 4. Land-use change by post-classification method AREA CHANGE AREA CHANGE IN 1990-1998 IN 1998-2005 NATURE OF CHANGE (ha) (ha) Loss of forest 199.31 625.47 Gain of forest 108.30 657.94 Based on the post-classification method of land-use change in two periods during and after implementation of the land allocation 100 173.87 The results further showed that the forest disturbance was 199.31 ha in the first period and in the second period, 625.47 ha. Forest increased 108.30 ha and 657.94 ha in the first and second periods, respectively (Table 4). The original area of the dense forest class and the open forest class, 84.79% and 98.45% of respectively did not change in the first period (1990-1998). Likewise, in the second period (1998-2005), 66.37% and 55.10% of the dense forest and the open forest did not change, respectively (Table 5). Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 - 102 Table 5. Land-use areas which did not change LAND-USE TYPE Dense Forest Open Forest Shrubs Paddy Field Upland Crops Grass Land Mosaic Other Lands Total AREA IN 1990- PERCENT OF 1990 AREA IN 1998- PERCENT OF 1998 1998 TOTAL 2005 TOTAL (ha) (%) (ha) (%) 84.79 66.37 1110.83 742.77 527.69 98.45 513.34 55.10 1059.51 91.37 381.39 35.57 133.80 100.00 173.87 100.00 265.37 65.50 265.37 7.82 180.29 89.56 14.10 92.45 359.86 97.30 332.70 22.10 44.89 77.77 22.10 31.18 3682.24 2445.64 CONCLUSIONS During 1990-1998, the output result of GIS interpretation shows that: The total area of forest degradation was 199.31 ha (24.91 ha annually). In more specific terms, the following results were noted: Forest degradation was 34.80% of total area at the slope range 150-250 and 37.10% at the slope range 250-350; 31.70% of total area of forest degradation took place at 500-600 masl and 28.30% at 600-700 masl; 20.40% of total area of forest degradation occurred at the distance range 500-750m and 11.20% at 7501000 m distance. The total area of forest restoration was 108.30 ha (13.54 ha annually). Of which, In terms of forest restoration coverage, 43.50% occurred at the slope range 150-250 and 35.60% at the slope range 250-350; 34.10% of forest restoration happened occurred at the elevation range 400m-500m and 33.00 % at the 500m600m; and 24.90% of forest restoration occurred at 250-500 m distance, 20.00% at the distance of 100-250 m and 18.00% 500750 m from the location of land-use change to the main road. During 1998-2005, the total area of forest degradation was 625.47 ha (89.35 ha annually). Of which, The total area with forest degradation, 37.10% was observed to occur at the slope range 150-250 and 34.40% at 250-350 slope; 31.70% of the forest degradation area happened at 500-600 masl elevation, 29.50% at 400-500 masl; and 19.10% of the area of forest loss was at the distance of 250-500m and 500-750m, and 9.60% at 1250-1500 m distance); The total area of forest restoration was 657.94 ha (93.99 ha annually). Of which, 37.90% of the total forest restoration area took place mainly at the slope range 150-250 and 37.50% at the slope range 150-250; 27.30% at the elevation 500-600 masl, 24.00% at 600-700 masl and 23.50% at 400-500 masl; and 15.90% of total area of forest restoration was at the distance of 250-500 m to the main road; 13.60% at the distance of 500-750 m and 13.00% at the 750-1000 m. REFERENCES [1.] HUNG, P. T. 2000. Monitoring land use changes with the help of landsat-tm image and geomatic technologies. The case of Loc Chau Commune, Bao Loc District, Lam Dong Province, High Land of Vietnam. International Rice Research Institute, Los Banos, Laguna, Philippines. November 2-3, 2000. [2.] MALYVANH, M. and C. FELDKÖTTER. 2000. Application of remote sensing and GIS for forest cover monitoring in Lao PDR. http://www.mekonginfo.org. [3.] WU, Q. H.Q. LI, R. S. WAN, J. PAULUSSEN, Y. HE, M. WANG, B. H. WANG and Z. WANG. 2006. Monitoring and predicting land use change in Beijing using remote sensing and GIS. Landscape and Urban Planning 78 (2006) 322–333. [4.] XIE, Y. and J. FELLOWS. 1996. application in natural reserve management. 259-265. In: PETER, WANG J. and Y. Conserving China‟s Biodiversity Environmental Science Press. Beijing. GIS Page XIE. (II). 101 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 – 102 TÓM TẮT BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP TẠI Xà NGỌC PHÁI, HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN, VIỆT NAM (1990-2005) Đàm Việt Bắc, Đàm Xuân Vận* Trường Đại học Nông lâm – ĐH Thái Nguyên Nghiên cứu đƣợc tiến hành tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định sự thay đổi sử dụng đất trong 15 năm qua (1990-2005) của thời kỳ Đổi mới ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Đối với dữ liệu không gian, việc ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) nhƣ một công cụ để xác định sự biến động sử dụng đất. Ba bản đồ sử dụng đất (1990, 1998 và 2005) đã đƣợc chồng ghép và chia thành hai giai đoạn (19901998 và 1998-2005). Một số bản đồ chuyên đề đƣợc tạo ra nhƣ bản đồ độ dốc, chế độ nƣớc, độ cao và bản đồ giao thông. Hơn nữa, các điểm nghiên cứu đƣợc chia thành các lƣới gồm 204 ô với kích thƣớc 500 mx 500 m/ ô hoặc 25 ha/ ô để xác định số lƣợng và những khu vực, vị trí của sự thay đổi sử dụng đất gắn liền với mức độ ô lƣới. Đối với giai đoạn 1990-1998, tổng diện tích rừng bị suy thoái rừng là 109,31 ha. Điều này xảy ra ở độ dốc 15 ° -35°, độ cao 500-700 và ở khoảng cách 500-1000m từ vị trí của loại đất thay đổi đến đƣờng chính. Việc phục hồi rừng trong khoảng thời gian này đã đƣợc 108,30 ha chủ yếu ở độ dốc 15 ° -35°, độ cao 400-700 và ở khoảng cách 100250 m, sau đó là 250-500 m và 500-750 m so với đƣờng chính. Đối với thời kỳ 1998-2005, tổng diện tích rừng suy thoái là 625,47 ha, chủ yếu ở độ dốc 15 ° -35°, độ cao 400-600 và ở khoảng cách 250-500 m , sau đó là 500-750 m và 750-1000 m so với đƣờng chính. Phục hồi rừng trong khoảng thời gian này đã đƣợc 657,94 ha chủ yếu ở độ dốc 15 ° -35 °, độ cao 400-700 và ở khoảng cách 250-500 m, sau đó là 500-750 m và 750-1000 m so với đƣờng chính. Từ khóa: Biến động sử dụng đất, khu vực miền núi, miền Bắc Việt Nam * Tel: 0982166696; Email: damxuanvan@yahoo.com 102 Đỗ Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 103 - 106 FARMING SYSTEMS OF THE POOR IN MOUNTAINOUS AREAS OF QUANG NAM PROVINCE AND POSSIBLE SOLUTIONS Do Thi Ngoc Oanh* College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University SUMMARY The poor in mountainous areas of Quang Nam province give priority to food security in farming. Main food crops on upland were rice, cassava and banana; on lowland were rice and cassava; in home garden was jackfruit; in forest were acacia and cinnamon. Strategies to ensure food security and sustainable income for the poor are improve upland agriculture production by crop diversification, “short-time crops support long- time plants”, sustainable intensifications of local varieties and breeds, and enforce local people integrated in chain values of banana, cassava and mungbean. Suggestion models for upland are intercrop local rice with mungbean and local cinnamon; intercrop cassava with acacia; for lowland are intensive cassava, intensive banana and hybrid breed maize; for home garden are improve chicken and pig production. Key words: Poor, upland farming, food security, upland rice,Quang Nam INTRODUCTION* Quảng Nam province is located in a central costal part of Vietnam (latitude and longitude are 16050N and 107012E respectively). The province covers an area of 1.040.878 ha of which mountainous area occupies 81% (845.763 ha). Population in the mountainous areas was 410.000 people of which about ¼ was ethnic minorities including Cơ tu, Ca Doong; Bhnoong, Xơ đăng, Cor, Mơ Noong, Ve and Tà Riềng. To find out possible farming solutions for the poor in mountainous areas of the province this study was conducted in May 2010. PRA technique was used and studying sites were Tra Tap and Tra Don Communes in Nam Tra My district; Tra Tan and Tra Cot communes in Bac Tra My district. GENERAL BACKGROUND OF NAM TRA MY AND BAC TRA MY DISTRICTS Nam Tra My and Bac Tra My are considered as mountainous districts with a high proportion of the poor. By the end of 2009, Nam Trà My had 60% of poor household (3.316/5.462 households), 62% of the poor people (15.141/24.274 people); Bac Trà My had 76% of poor household (3.011/3.913 households), or 62% of the poor people * (14.603/18.945 people) (DRAD, 2010). The urgent needs of the poor were food and cash for daily expensive. Crop production was the major farming activity and the main mean of generate income in the mountainous areas. Some local people participated in value chains of local products. Dominant crops were rice, cassava and banana; dominant forest plants were acacia and cinnamon, dominant animals were pig, cattle and chicken. Cash crops were banana and cassava. Acacia was also a cash plant in areas which was easy to assess main roads. Most of the agricultural land was on upland. For example, in Trà Tập commune in a total of 136 ha land for seed crops there was 71% of upland rice and only 26% was paddy rice (People committee of Tra Tap, 2010). The main characteristics of farming were priority given to rice production, extensive and low diversity farming. Comment farming techniques were no or low level of fertilizer application even on paddy rice; self produce seeds and no means of soil and water conservation on upland. Agricultural development strategies for the mountainous area were promoted forestry, cattle, pig, poultry and medicinal herbs. Suggested species were forestry plants, cinnamon, pepper, pineapple and fruit, cassava (DARD, 2007). Tel: 0168.670.2448;Email: dongocoanh@gmail.com 103 Đỗ Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ The most difficulties in farming were soil degradation lead to a reduction of crop yields; A long travel distance from villages resulting in a high labor cost per harvest unit; Extreme weather such as cold (December to February), drought, stone rain (5-6) storm (July and Augurs) and flood (September and October) resulting in unattainable crop yields. FAMING SYSTEMS Upland rice based systems Land use strategy depends on soil fertility, soil moisture content, and accessibility. Priorities (fertile soil and labor) were dedicated for rice. Cassava was the second important crop as it was used in a shortage of rice and for animal feed. Banana was planted as a cash crop. Other food crops including various bean and maize with a small proportion were planted mostly for house consumption. Three comment types of crop rotation were found on upland as follows: Rice (1 year) – fallow (2-5 years) – rice (1 year) – cinnamon. The fallow period will be shorten if a plot was near village (about 1 km). Rice (1 year) – banana (2 years) - fallow 3 years – rice if soil moisture content was high. Rice (1 year) – cassava – acacia if road assess was possible. Monoculture of rice was dominant with two types of rice. Early harvest rice was from April or May to September or October. Late harvest rice was from June to October or December. These two types of rice produced a similar yield which was 1-2 ton/ha. These were practiced to avoid total failure in case of a bad weather. Local varieties were seeded with a very high density (50 kg/ha; 10 seeds/hole). Hand weeding was carried out 12 times per season and there was no application of fertilizer. Intercrop rice with mungbean or vegetable was found with a small proportion as follows: Mungbean (from March or April and to May or June) – rice (from May to October or December) if it was a fertile soil. About 10% of households practiced this system. 104 77(01): 103 – 106 Vegetable (from February to April) – rice (from May to October or December) if soil moisture content was high. Traditionally, to save labor a mixed seeds of rice and mungbean was seeded in March, at a harvest of mung bean in May rice started heading. A new technique of intercrop rice mung bean was introduced by DARD but was not widely practiced. Mungbean was seeded in March with a density of 2 seeds/hole. Rice was seeded at a time of weeding for mungbean in May. Mungbean was a traditional crop; its advantages were it allows quick harvest (in 2 months), easy transport and harvest at time of food shortage. At present a value of 1 kg mungbean (10000-12000 đ/kg) equivalent to two or three kg of upland rice. Disadvantages of this crop were labor intensive for harvesting at seeding time of upland rice. Cassava season was from May to December and that of maize was from March to July. Local variety of maize was prefer instead of hybrid variety, however, there were a few interviewers mentioned about maize. Banana was a relatively important cash crop as it provided monthly income from 20.000 to 40.000 VND/each harvest. There was a consume channel of banana to Tam Ky and to Da Nang cites. Acacia plantations were found where road access to local markets was possible whereas patchy cinnamon was found anywhere. Two cinnamon varieties (local and Thanh Hoa varieties) were planted. Of these two varieties, the local cinnamon grown slower and take longer time to be harvested but had a better quality. Market of these products was problems. In Nam Tra My many interviewers said “do not know whom to sale acacia to” and price of cinnamon bark was too cheap to compare with its cost. According to the interviewers, price of cinnamon was about 10.000 to 15.000 VND/kg whereas to have benefit it must be 70.000 to 80.000 VND/kg. Lowland rice-based system Average holding of paddy field was 600 m2/household. There were two rice crops per Đỗ Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ year: Winter-Spring rice was from January to May and Summer-Autumn rice was from June to October. Some households applied chemical fertilizer but there was no application of animal manure. Rice yield which was 3-3.5 ton/ha (DARD, 2009) was low in comparison with that of provincial average. Constraints to rice production were unstable water supply, cold winter when heading and flooding at the harvest. To cope with unstable water supply, in the Tra Mai commune some farmers turned rice plots into banana plots. Annual crop based systems along river banks The most dominant crop was cassava which was planted from January to August. Cultivar KM 94 was planted at a high density of 0.6 x 0.6 m. Some households applied chemical fertilizer. Cassava yielded at 10-12 ton/ha (lower than its potential which was 20-30 ton/ha). Price of fresh cassava was 5000 to 6000 VND/kg. In many cases cassava dealers offered rice in advance then farmers paid at the harvest of cassava. The poor appreciated this offer. There was a cassava starch factory in Quang Nam where it was delivered to. Other crops included maize (January to April and May to August); peanut (January to April and April to August); various bean (January to June); and vegetables (May to June and October to December) were found along river banks. Homegarden Management of home garden was very poor with the most common crop was jackfruit. There was a channel of jackfruit consumption to Tam Ky and Da Nang cities. Unstable and low production of livestock was comment to most of interviewers. Pig, cow, chicken and goat were suffered from poor nutrition feed and management. For example, a piglet of 10 kg reached a weight of 40 kg after 6 month rising. POSSIBLE SOLUTIONS Land use strategies As it has been considered that “ensuring food security is one of the most important 77(01): 103 - 106 necessary conditions for an upland agricultural intervention” (Sciortino et. al., 2008) so the first strategy improve upland agricultural production for food security and to generate surplus of cash crops for domestic and nearby regional markets. The second strategy is crop diversification to reduce household vulnerability and depending on upland rice. The third strategy is graduate replace crop plants by forestry plants. Selection criteria of upland crops which suggested by Sciortino et. al. (2008) can be applied. They are market demand exists; suitable for sloped lands; integrates into agroforetry systems; potential for community based value added processing; potential for private sector participation; potential for contract farming; potential as natural/organic product and potential suitable as a biofuel. Other criteria must be taken into account are low input and generate all year cash flow. Technical aspects Plant species for the upland are mungbean, banana, cassava local cinnamon and acacia. Applied techniques are: Sustainable intensification of crop and animal production by use of improved local varieties and breeds because they are well-adapted and allowed a stable low yield and appropriate management (nutrition management, density and protection); Appropriate proportion of hybrid varieties; Intercrop annual crops with perennial plants (rice, mung bean with cinnamon; cassava with acacia); improve animal health care and feeding. Marketing aspect Enable the local people to bargain with traders to improve the sale price of their products and promote their role in chain values of these products. Suggested models 1. Sustainable intensification of upland rice by intercrop rice with mungbean and local cinnamon. 2. Improved bananas plantation by planting and protection techniques to improve 105 Đỗ Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ quality, various planting time to have various maturity time. 3. Intercrop cassava with acacia where road assess is possible. 4. Improve local chicken and pig production to improve value of cassava and maize. 5. Forming farmer group to market mungbean, banana and cassava. An example of diversify income Hồ Thị Hiếu, in the Second village, Trà Mai commune took advantage of living near Nam Trà My town to generate a cash flow from upland as follows: Weekly income was 50.000 VND/week/harvest from summer vegetable (rau ngot). Monthly income was 200.000 – 300.000 VND/month/2-3 harvests from banana (50% sale to collector, 50% sale at local market); 77(01): 103 – 106 Seasonally income was 200.000-300.000 VND/season from fresh sticky local maize. Yearly were 200.000 VND/ year/about 1000 m2 from jackfruit and 1.5 – 3 million VND/year from leaves for Tet cake cover. REFERENCES [1]. Quang Nam Department of Rural and Agricultural. 2010. Report on implementing integrated funding in 135 areas. [2]. Tra Tap People Committee. 2010. Report on agricultural production of Tra Tap commune. [3]. Sciortino R.; Forester. A. F.; Sudsawasd S. and Aungsumalin S. 2008. Study on enhancing upland food secretary and crossboder agricultural production supply chain in the GMS. MIDAS Agronomics Company Limited. Thailand. TÓM TẮT HỆ THỐNG TRANG TRẠI CỦA NGƢỜI NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÖI TỈNH QUẢNG NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP Đỗ Thị Ngọc Oanh* Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên Vấn đền an ninh lƣơng thực đƣợc ƣu tiên hàng đầu đối với ngƣời nghèo ở khu vực miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam. Cây lƣơng thực chủ yếu ở vùng cao là lúa, sắn và chuối; ở khu vực vùng thấp là lúa và sắn; trong vƣờn nhà là mít; trong rừng là cây keo và quế. Các giải pháp để đảm bảo an ninh lƣơng thực và thu nhập ổn định cho ngƣời nghèo là cải tạo nông nghiệp vùng núi thông qua đa dạng hóa cây trồng, “cây ngắn ngày giúp nuôi cây dài ngày”, vấn đề thâm canh bền vững các giống cây, con bản địa và việc bắt buộc ngƣời dân địa phƣơng tham gia vào chuỗi giá trị hàng hóa của chuối, sắn và đậu xanh. Các mô hình khuyến cáo đối với khu vực miền núi là gối vụ lúa với đậu xanh và quế; gối vụ sắn với keo; đối với vùng thấp là thâm canh sắn, thâm canh chuối và ngô lai; đối với vƣờn nhà cải tạo sản xuất chăn nuôi gà và lợn. Từ khóa: Người nghèo, nông nghiệp vùng cao, an ninh lương thực, Gạo ngược,Quảng Nam * Tel: 0168.670.2448;Email: dongocoanh@gmail.com 106 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122 DRIVING FORCES OF LAND-USE CHANGE IN NGOC PHAI COMMUNE, CHO DON DISTRICT, BAC KAN PROVINCE, VIETNAM (1990-2005) Dam Viet Bac, Dam Xuan Van* Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry SUMMARY The study was conducted at the Ngoc Phai Commune, Cho Don District, Bac Kan Province, Vietnam. The aimed to determine land-use changes (LUCs) and their driving forces for the last 15 years (1990-2005) of Doi Moi (renovation) ra in the mountainous region of northern Vietnam. The proximate (direct) driving forces of land-use change include wood extraction and slash-and-burn, shift in agricultural expansion, cattle ranching, demographic factors, biological factors (soil degradation) and physical factors (slope, elevation and distance from location of LUCs to the main road). In contrast, the underlying (indirect) driving forces of LUCs were Land Allocation Program 1992-1997, Five Million-Hectare Forest Restoration Program 1998-2010, Land Law 1993, Market-driven and Financial Aids in Forest Development. During the first period (1990-1998), the implementation of the forest allocation program became in allocated forest areas. Unfortunately, high rate of forest disturbance happened in the unallocated areas. During second period (19982005), after implementation of the land allocation program, market-driven and technological change created different effects on both gain of forest area and loss of forest areas. This period marked a strong economic transformation on agricultural production activities (shift in agricultural sector) and supports from government‟s program. However, the forest protection and management seemed to be less effective compared to the first period, during land allocation implementation. Keywords: Driving forces, land use change, mountainous region, northern Vietnam INTRODUCTION* According to estimates by the United Nations Development Program (UNDP), forest area declined from 43% of total land area in 1943 to 23% in 1995. However, forestland coverage recovered to 32.3% in 2000 and 36.7% in 2004, due to active afforestation and reforestation efforts, especially in the northeast and northwest regions of the country (MARD, 2006). Almost five million hectares of forest were lost in Vietnam from 1943 to 1997. Population increased from 27 to 79 million between 1945 and 2001. At present, about three quarters of the population are engaged in agricultural production, thereby generating a massive demand for land. This demand will continue to rise as population is projected to increase to 123 million in 2030. The fast growing rural population, among the highest in South-East Asia, puts high pressure on land-use stemming from a need to expand and * Tel: 0982166696; Email: damxuanvan@yahoo.com intensify agricultural production. At the same time, the Vietnamese government is attempting to restore forest cover to the level of 1943 with huge reforestation programs and changing tenure regimes like the allocation of forest land to individuals, groups and communities. This study aimed to understand the proximate and underlying causes of land-use changes in the rural areas of Northern Vietnam uplands during the past two decades. The result from this study could be useful in the development of effective strategies for land-use planning, land allocation and implementation of various rural development and resource management policies. MATERIALS AND METHODS Driving forces of land-use change analysis: The study largely relied on the use of semistructured questionnaire and key informants at village and household levels. GIS analysis was employed in determining the driving forces of land-use/land cover change, whether direct or indirect (Figure 1.) 107 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ RESULTS AND DISCUSSION The following discussion shows the proximate (internal factors) driving forces in the dynamics of land-use change. Proximate or (Direct) Driving Forces The context of land-use-change in Ngoc Phai commune was greatly affected by the national renovation policies. Change in national political economy impacts indirectly the commune through time, which is closely linked to evolution of forest and land-use concerns. Wood extraction and slash-and-burn. Results of the survey show that at the beginning of forest land allocation program implementation (1992-1997) in the study site, there are still 60 cases of illegal logging which is equivalent to 360 m3. This explains that at the beginning of implementation period of the program, the effect is not always feasible. After the implementation of the land allocation program, illegal logging was still practiced. This could be attributed to weak management of forestry guards, forestry managers, and perceptions of local farmers. According to Sikor (2001), the period since the implementation of forestland allocation program showed a slight increase in overall forest cover. However, the superficial successes of the land policy hide the deeply destabilizing effect it had on shifting cultivators. Findings of the research show that after the land allocation program and forest protection contract have been implemented in the study site. The commune has marked achievements and gained a lot of success in forest management and protection. Result also shows that the number of illegal logging cases was reduced sharply during this time (from 60 77(01): 107 – 122 cases during 1990-1998 to 28 cases) and slash-and-burn cases were reduced from 20 cases to only 9 cases during 1998-2005 (Table 1). Findings of the study are in agreement with that of Castella et al. (2006). He found that majority of villages (70%) occupied by Tay people with abundant paddy fields were able to secure individual ownership, sloping land and intensified paddy production. However, the Dao group, who were deprived of paddy fields because of Tay people who claimed these areas as ancestral lands. Hence, the Dao ethnic group has limited paddy land and has no choice but to engage in shifting cultivation. Cattle ranching. Livestock husbandry has been increasing in Vietnam in recent years. In the period 1995-1999, the number of cattle has increased from 3.6 to 4.0 million while the buffalo population remained steady at 2.9 million. Among the factors propelling this expansion in Cho Don district, Bac Kan province are the growing population and growing demand for beef in urban areas as well as an increase in the use of cattle as a form of capital because of increasing land scarcity (SAM Program, 2003). The northern mountains offer good conditions for livestock production and this was why in 1994 more than half the buffalo population was located there. Livestock are almost an ideal cash crop for the uplands because they fill an empty niche in swidden systems; livestock fodder is available in fallow plots and secondary forests. Some upland regions have a reputation for high value cattle products. Table 1. Wood extraction and slash-and-burn cultivation as driving forces of land-use change CAUSES 1991-1997 1. Illegal logging + Case + Forest products damaged (m3) 2. Slash and burn cultivation + Case + Damage forest area (ha) * Source: Bac Kan Forest Governance Department and Field Survey 108 1997-2005 60 28 180 100 20 9 20 60 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122 Figure 1. Framework for driving forces of forest land-use change analysis The forest provides a large source of income for Hmong farmers. Bac Kan province offers a good source of fodder and space for raising buffalo, which are traded not only throughout the delta regions but also to Laos and Thailand. The Mountain Rural Development Program suggested that there is a need to reserve some open areas for production of fodder for cattle production, especially in more remote areas where animal production is a major income generating activity (MARD, 2001). There is some evidence linking the growth of the livestock sector to the elimination of forest cover in the northern uplands. Researchers in the SAM Program (2003), on the basis of a case study in Cho Don district, Bac Kan province in northern Vietnam, explained that the rapid growth in the herd of large ruminants (cattle and buffalo) has put unsustainable pressure on forest cover. The steep increase in the number of larger ruminants (buffalo and cattle) has created a threat to sloping land and forests. 109 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ The transition from collective herd management to management by individual households has led to free-grazing practices on both the lowland and hillsides, resulting in an increased number of disputes between farmers. Livestock owners returned to this traditional practice because individual households did not have enough labor force to tend a few head of livestock all year round. Based on interviews with the farmerrespondents, this is mostly due to the need to mobilize cash to purchase rice and fill in the food gap caused by reduced upland rice production. Buffalo populations have increased in recent years with 457 herds of buffalo in 1990, 690 herds in 2000 and 1, 133 herds in 2005. Herds of cow increased by 132 herds in 1990, 140 herd in 2000 and 272 in 2005 (Ngoc Phai People‟s Committee |Report, 1990; 2000; and 2005). In other parts of upland Bac Kan, livestock production is currently increasing, which may be explained by the growing demand from the lowland market, driven by the extremely rapid development of the Vietnamese economy. Shift in agricultural expansion. Forestry land allocation and protection contracts have much effect on village land and tree tenure. The question is what if no forest land allocation policies, and then what factors caused the increase in forest cover during 1998-2005 in the research site? The answer was laid in the broader dynamics of land-use and the ways in which changing market and technological opportunities affected agricultural production and expansion. Market expansion and newly available technologies motivated the people in the village to have two options of shifting: a shift in rice production from swidden to wet-rice fields and a change in cash cropping from cassava to corn. After 1998, swidden area dropped sharply due to the effective implementation of the land allocation policy. A rough estimate of labor productivity of swidden and wet-rice production indicate that this increase was not likely due to farmers‟ spontaneous switch 110 77(01): 107 – 122 from swidden to wet-rice production. The “Cropping System” component of SAM Project designed innovative cropping systems adapted to these local conditions. A large range of low-input alternatives to slash-andburn practices was tested in farming conditions. The advantages and constraints of these technical innovations were documented and made available to users through different methods such as demonstration plots, decision support systems, and participatory simulations. An action-research framework aims at facilitating a large diffusion of the proposed innovations. Shift in rice cultivation area. During 1998 to 2005, expansion of irrigation systems and use of high yielding wet-rice varieties played an important role in changing rice production in the research site. Change in macro-policies (e.g., rural road development, subsidized of seeds and micro-credit), enabled upland farmers to have access to high yielding wetrice cultivars, which were only available in the lowlands. The average productivity of paddy increased from 2.5-3 tons/ha in 1990 to 5–6 tons/ha in 1993 and 7-8 tons in 2000. In addition, de-collectivization, the privatization of land-use rights and market liberalization, provided incentives for farmers to invest in the expansion of wet-rice by building more terraced fields and constructing small irrigation systems with earth canals and bamboo water pipelines. The Government also financed new irrigation dams and consolidated old ones. However, physical and financial constraints of many farmers caused low adoption rates of improved wet rice. In 1995, new wet rice varieties were only planted in the communes located near along the main roads of commune with elevation range from 300 to 600 masl. Shift from cassava to hybrid corn. Changing markets and technologies also motivated a shift in cash cropping from cassava to corn. Markets for agricultural output rapidly expanded in the late 1990s. Traders began to arrive in larger numbers in search of agricultural crops to satisfy the demand for animal feed in the lowlands. Prices offered Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ became increasingly favorable to corn. Corn prices rose against cassava with the availability of new corn varieties. They allowed corn yields to triple within a few years, without the use of fertilizer and pesticides. By 1993, the returns for corn cropping exceeded those of cassava cultivation: 1 labor day produced an average return of VND 20000 in corn production, compared to VND 15000 in cassava. In addition, corn output was more secure since the cropping period for corn was much shorter. Overall, changes in markets and available technologies changed the relative costs and benefits of agricultural crops. In response, rice production shifted from swiddens to wetrice. Corn replaced cassava as the major cash crop. The shift in land-use reduced the demand for land, as wet-rice and corn production took place on permanent fields. They required smaller area of land for cultivation, as villagers had previously rotated swidden rice and cassava fields and reduce of pressure on land. As a consequencet, forests quickly regenerated in Ngoc Phai, as in the whole of Bac Kan, given the favorable natural growth conditions. The expansion was due to an increase in open-canopy forest. Closedcanopy forest remained unchanged. Forests grew back and the actual area under cultivation expanded. Shift in sustainable agro-forestry models in upland area. In the study site, An Thi Huong (2002) assessed the economic value of different agroforestry models in Ngoc Phai commune and found that from 20 surveyed households, there were 41 typical agroforestry models with a total of 18.61 ha. Of which, the model of cinnamon combined with upland rice accounted for 3.10 ha (16.67%), followed by cinnamon combined cassava 1.92 ha (10.32%) and smallest area models was Manglietia combined cassava, accounted for 0.90 ha 4.84% . Similarly, results show that the comparison of economic value among of agroforestry models affected the implementation of 77(01): 107 - 122 forestland allocation and market during renovation era in the study site shifted and expanded., applied technologies like (SALT) for economic purposes and reduce poverty. This is one of the positive factors, which contribute in reducing pressure on forest resource. Demographic Factors Population dynamics and density. In the uplands of Northern Vietnam, increasing population pressure combined with privatization of the economy, land redistribution and political reforms were the main driving forces behind the rapid and profound land-use changes which occurred during the past decades. Lowland areas are now saturated while the development of nonsustainable agricultural practices on the hillsides endanger the fragile upland ecosystems. These recent trends in land-use changes demand for new production technologies that would spare the natural resource base while meeting the increase in food needs (SAM, 1998). According to the Asian Development Bank the main causes of deforestation in Vietnam have been population-driven, demand for forest products and agricultural land and logging of large tracts of forest by State Forestry Enterprises (ADB 2000). Since 1993, the implementation of Resolution No. 04-NQ/HNTW(Population and Family Planning) dated 14/01/1993 of Vietnamese Communist Party played an important role in the socioeconomic development of individuals, households and the entire society. Ngoc Phai commune marked a great achievement in population control. The total population in 1990 was 312 households (1858 people), 377 households (1991 people) in 1995, 421 households (2095 people) in 1998, 443 households (2117 people) in 2000, and 497 households (2227 people) in 2005. The rate of population growth increased by 7.15% between 1990 and 1995, increased by 6.32% between 1995 and 2000, and increased 5.19% between 2000 and 2005. In 15 years, population growth in study site increased by 111 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 19.86%. This clearly shows that an increase population means an increase for food demand, hence, population control should be encouraged and lessen its impact to land-use change. Results show that the population density varied in each of village (Table 2). Despite the remarkable achievement in population control in the study site, there are still more than 30% of households living below the poverty line in 2005. With the current situation on population density and population growth rate in the commune, it could not be considered as the main cause of decline in forest area. Differences between ethnic groups particularly Tay versus Dao ethnic groups, brought about land-use change. The Tay ethnic group claimed that Dao‟s paddy fields were their ancestral lands. This is in agreement with the findings of Castella et al. 77(01): 107 – 122 (2002) on the declining role of ethnicity in farm households differentiation in Ngoc Phai. Other Factors Biological Factors Soil degradation. Results of this study show that changes in soil fertility over time may have affected a farmer‟s land-use decision to incorporate erosion control measures into an existing system or to adopt a new land-use system in the area. Possible causes of change in soil fertility included the application of fertilizers, insecticides and herbicides, erosion and climatic changes, and slash-and-burn cultivation. In the sloping upland areas, erosion is considered one of the main causes of soil fertility reduction. Farmer-respondents reported their perception about the changes in the soil fertility of their parcels. Interview results are presented in Table 3. Table 2. Population dynamics and its density in Ngoc Phai commune, 2005 Ban Cuon 1 AREA (HA) 378.527 AREA (KM2) 3.785 POPUALTION DENSITY (PERSONS/KM2) 104 HOUSEHOLD NUMBER (PERSONS) 83 Na Tum 389.632 3.896 83 71 Phieng Lieng 1 368.141 3.681 55 47 Ban Cuon 2 613.225 6.132 49 62 Ban Om 566.682 5.667 45 63 Ban Dieu 741.593 7.416 47 80 Phieng Lieng 2 416.764 4.168 44 41 Coc Thu 699.014 6.990 31 53 VILLAGE Source: Field survey, 2006 Table 3. Farmers‟ perceptions on change in soil fertility No. of respondents % Changes in soil fertility FREQUENCY ALL CASE UPLAND RICE CASSAVA AGROFORESTRY 83 28 20 10 (100.00) (100.00) (100.00) (100.00) No change % Decreased % Increased % Source: Field survey, 2006 112 17 (20.48) 55 (66.26) 15 (18.07) 3 (10.71) 22 (78.57) 1 (3.57) 6 (30.00) 17 (70.00) 3 (15.00) 3 (30.00) 1 (10.00) 6 (60.00) MAIZE 25 (100.00) 5 (20.00) 15 (60.00) 5 (20.00) Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Physical Factors Arcording to Dam Viet Bac‟s master thesis (2007), the land use change of Ngoc Phai commune from 1990 – 2005 indicated as following: Period 1990-1998. The total area of forest degradation was 199.31 ha. Of which, the highest percentage of forest degradation happened at slope 250-350, accounted for 37.10% (74.02/199.31 ha) of total areas of forest loss, followed by 34.80% (69.36/199.31 ha) at slope 150-250, 15.50% (30.93/199.31ha) at slope 350 and above. During this period, forest degradation happened mainly at elevation range 400-800 masl with following proportions: 19.00% (37.89/199.31ha) of total area of forest degradation at elevation 400-500 masl, 31.70% (63.14/199.31ha) at elevation 500600 masl, 28.30% (56.37/199.31 ha) at elevation 600-700 masl, and 15.20% (30.31/199.31ha) at elevation 700-800 masl In terms of distance, the highest percentage of forest degradation during this period, was 20.40% (40.57/199.31ha) at the distance 500750m to the main road, followed by 11.20% (22.39/199.31ha) at the distance 750-1000m, 10.30% (20.58/199.31ha). A 9.00% to 9.80% of total areas of forest degradation occurred at the distance 250-500m, 15001750m, 1750-2000m, and 2250-2500 m. Over a period of eight years, results reveal that the total area of forest restoration was 108.30 ha. Of which, 43.50 % (47.11/108.30 ha) at slope 150-250, 35.60% (38.57/108.30 ha) at slope 250-350, 12.50% (13.58/108.30 ha) at slope 00-150, and only 8.30% (9.04/108.30 ha) at slope 350 and above. In addition, forest restoration occurred mainly at elevation 400-700 masl with a ratio: 34.10% or (36.94/108.30 ha) of total area of forest increase at elevation 400-500 masl, 33.00% (35.714/108.30 ha) at elevation 500600 masl and 19.50% (21.17/108.30 ha) at elevation 600-700 masl. In terms of distance, forest restoration areas increased remarkably with 24.90% 77(01): 107 - 122 (26.96/108.30 ha) at distance 250-500m, followed by 20.00% (21.64/108.30 ha) at 100-250 m distance and 18.3% (19.84/108.30ha) at 500-750m distance. Period 1998-2005. The total area of forest degradation was 625.47 ha and occurred mainly at slope 150-250 and 250-350. There was 36.40% (227.83/625.47 ha) of the total area of forest degradation at slope 150-250 and 37.10 % (232.06/625.47 ha) at slope 250-350 . Considering elevation, forest degradation, the highest percentage of forest degradation was 31.70% (198.30/625.47 ha) at elevation 500600 masl, followed by 29.50% (184.37/265.47 ha) at 400-500 masl, 16.20% (101.52/265.47 ha) at elevation 600-700 masl, and 9.40% (58.81/265.47 ha) 700-800 masl elevation. It is interesting to note that forest degradation happened on the same percentage of forest loss area at the distance 250-500m and 500750m with 19.10% (119.582/265.47 ha). At a distance of distance 1250-1500m, 9.60% (60.25/625.47 ha) and 8.80% at distance 1500-1750m, and 8.90% of the total area of loss was at 100-250m distance. Over a period of seven years, the total forest restoration area was 657.94 ha. Of these, 37.90% (249.40/657.94 ha) at slope 150-250, 37.50% (246.64/657.94 ha) at slope 250-350, 14.70% (96.43/657.94 ha) at slope 00-150, and 10.00% (65.47/657.94 ha) at slope 350 and above. Forest restoration happened mainly at elevation 400-800 masl, with the following ratios: 27.30% (179.00/657.94 ha) at 500600 masl, followed by 24.00% (158.05/657.94 ha) at 600-700 masl, 23.50% (154.41/657.94 ha) at 400-500 masl and 11.40% (74.93/657.94 ha) at an elevation of 700-800 masl. Distance-wise, high forest restoration occurred at 250-1250 followed by 5.90% (104.33/657.94 ha) at distance 250-500m, 13.60% (89.80/657.94 ha) at 500-750 m, 13.00% (85.60/657.94 ha) at 750-1000 m, and 10.5% (69.29/657.94 ha) at 1000-1250 m distances. 113 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Underlying or (Indirect) Driving Forces Conceptual approaches for analyzing land-use change and identifying driving forces were to emphasize on national forest and land law, land tenure policies during the past 2 decades as external factors to dynamic of land-use change to local context. Institutions and Related Policies to Forest Restoration At the Sixth National Congress in December 1986, the Vietnamese Communist Party announced the adoption of movements towards a market-oriented economy, which is called Doi Moi (renovation). Vietnam‟s economic transition was a relatively smooth period of structural adjustment and stabilization. Forest policies, other relevant policies, legislation agencies and policy enforcement bodies are major factors that influenced forest restoration in Vietnam and play an important role in the positive land-use change. These are the underlying driving forces of land-use change in mountainous regions of Northern Vietnam in general, and Ngoc Phai, the study site, in particular. Institutional framework. The organizational structure of Vietnam‟s forest sector has four administrative levels: the central (national), provincial, district and commune levels. At present, Vietnam has 64 provinces and cities, about 600 districts and 10,000 communes. All administrative levels are under the control of the State. At the central level: The Ministry of Agricultural and Rural Development (MARD) is responsible for forest sector administration, including special-use and protection forest management. The Forestry Department and Forest Protection Department are MARD‟s agencies tasked with forest administration. MARD reflected at province level through a Department of Agriculture and Rural Development. Additional public service agencies involved in the forest sector are the Forest Inventory and Planning Institute (FIPI) and the Forest Science Institute of Vietnam (FSIV). The National Forestry University and the Forestry 114 77(01): 107 – 122 Extension Division are attached to the Agriculture Extension Department. At the provincial level: The People‟s Committee is responsible for contracting households to manage forestland. There are two-forest administration agencies under the control of the Provincial People‟s Committee (PPC). The first of these is the Department of Agriculture and Rural Development (DARD), in which the Forestry Sub-Department operates as a specialized agency to assist the Director of DARD in forestry activities. At present, Vietnam has 34 Forestry SubDepartments with a total 530 employees. The second is the Forest Protection SubDepartment (FPsD), which serves to advise the province about forest protection. It can also enforce the Forest Protection and Development Law. Presently, there are 59 FPsD with a total of 1,300 employees. At the district level: The corresponding “divisions” are often combined with other technical units, the Economics Division on Agriculture and Rural Development is under the control of the District People‟s Committee (DPC) and employs one or two forestry staff responsible for monitoring forestry activities. A Forest Protection Unit (attached to FPsD) operates in a certain districts. Vietnam presently has 424 Forest Protection Units with a total of 3,500 employees. At the commune level: There is a Forestry Board under People‟s Committee and regulated by the Forest Protection and Development Law. However, because of budget constraints, most communes have so far failed to employ any commune forest staff. Where they operate, Forest Protection Units assign one forest ranger to work in one commune/commune group. At the hamlet‟s level: This is under the jurisdiction of communes, but they are not a state administrative level. They function, however, as autonomous organizations, combining several communities in a single hamlet. Heads of hamlets are selected by the local people and are recognized by commune authorities. Hamlet heads act as people‟s Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ representatives and contact persons for the commune authorities to communicate with local people. In some remote and isolated areas with ethnic minorities, heads of hamlets function together with village patriarchs who act as customary leaders. Extension services are part of the provincial and district agriculture extension agency. Since 1993, a network for extension service in agriculture and forestry has been established under the Provincial Department of Agriculture and Rural Development (an Extension Center) and the corresponding district units (an Extension Station). The basic administration structure is now in place at provincial and district levels, although at commune, village and hamlet levels, the system varies greatly in size and quality and structures are often typically composed of only five staff. Forest and other relevant policies (land reform after renovation policies 1986). The national context of change in Ngoc Phai commune has evolved greatly since 1986, Vietnam has transformed from subsidized mechanism to market driven or Doi Moi (renovation era). Changes in the national political economy impact local community in the study area through time and motivate a diversity of responses. After the first five years (1986-1990) of implementation of the Doi Moi (renovation) era, a series of policies and laws in the agricultural sector, especially concerning land-use, were issued. The most important policies were the Land Law (1993) and its revised versions (1998, 2001), the new Land Law (2003) and Ordinances 64/CP (1993) and 02/CP (1994) of the government dealing with the regulation of agricultural and forestry land allocation. There were also other policies that were directly related to land issues as well as supportive policies indirectly related to land issues. Forestland allocation. Decree No. 02/CP/ 01/1994 provided for the allocation of forestland to individuals and households. The main objectives of allocating forest land to 77(01): 107 - 122 individuals and households are to involve individuals and households in the protection of the forest from fire, theft and environmental degradation and to promote the utilization of forest land and the greening of bare lands with trees by encouraging individuals and households to participate in afforestation for economic gains. A unique characteristic of the Vietnamese land tenure reform is the allocation of forestland to individual farmers. Forest lands and formerly forested areas was allocated to volunteer farm households on the basis of a 50 years lease under the condition that the beneficiaries engage in reforestation by means of tree planting and regeneration measures. However, the main recipients of forest allocation processes were still state organizations. The major part of individual households, which benefited from forest allocation, however, did not receive full management rights. Under current regulations, forestland was allocated in two different ways: (1) allocation of a land-use certificate (LUC) based on a management agreement (khe uoc) and (2) assignment of forestland based on a protection contract (hop dong). The latter does not allow extraction of firewood or wood for construction without applying to the „forest owner‟ represented by the state organization. Moreover, recipients of a protection contract are not allowed to construct a house on the contracted land, which restricts their customary use rights considerably. The „beneficiary‟ of a protection contract receives an annual protection fee of 50,000 VND per hectare (around 3 US$), which does not provide a strong incentive to take measures of regeneration. Thus, recipients are more likely to act as forest guardians. Result of allocation of forest causing positive forest expansion. In 1994, Decree No. 64 for agricultural land allocation and in 1994 Decree No. 02 for forestland allocation: The study site is one of 22 communes of Cho Don district, over a period of (1992-1997) 115 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ where the total area allocated to the commune was 1,581.54 ha. Of which, 663.28 ha were natural forest and 917.55 ha of nonforested status areas. Thus, survey result shows that land allocation program started in 1993 and ended in 1997. Most allocated land area was monitored and reallocated to local people due to lack of accuracy and weakness in allocation land at the beginning stage of the program. However, forestry on allocated land is not always a feasible entry point to support households in developing their farms and household economy. Apart from aspects like the access to a market for forest products, there are also other factors influencing the attractiveness of forestry. Soil fertility, size of the land as well as the overall configuration of forest land and allocated individual land influence the degree of difficulties in managing the forestland. Moreover, poor farmers are usually disadvantaged in the land allocation process itself. The argument being that these households had not enough resources (labour and capital) to develop allocated forestland. Besides, there were some areas in the commune where cutting down of trees by illegal loggers especially on unallocated area and some allocated plots far from their houses. Findings show that land and forest allocation to farmers is one of the decisive factors for the development of household economy in order to reduce pressure to forest resources. Until 1996 less than 30% of forestland had 77(01): 107 – 122 been allocated in Ngoc Phai communes, and average forest allocated areas in the Cho Don district was 30%. After 1996, allocation number of households receiving forestland significantly increased. Many households received forestland two to three km away from their houses. Thus, they had to build a farmhouse in the forest in order to develop and protect their farms. In general, forest area allocated to farmers have been under good protection and management, and agricultural and forestry activities have been carried out on forestland. Especially, with the operation of extension service and credit scheme agroforestry farm based economy has been adopted among local farmers. For this reason, pressures on forest resources after land allocation program implementation in study area were greatly reduced. In sum, perception of local people shows that after receiving allocated land, 95% local people became enthusiastic about re-zoning the land in order to better exploit barren hill lands and establish forest tree plantations. In this case, forestland allocation not only inspired people to improve their household income, but also to overcome landlessness and poverty. After receiving land, residents had greater sense of ownership and channeled their resources into renovating production methods, seeking and investing in new technologies and more appropriate forest tree species, and enhancing productivity and quality of agroforestry products. Table 4. Allocated forest area in the villages of Ngoc Phai commune, 1992–1997 VILLAGES Phieng Lieng 1 and 2 Ban Cuon 1 Ban Cuon 2 Coc Thu Na Tum Ban Om Ban Dieu Total TOTAL AREA (HA) 82.95 246.89 89.05 46.50 242.24 308.93 564.98 1581.54 ALLOCATED FOREST AREA (HA) NON-FOROSTED NATURAL FOREST AREA 17.53 64.71 172.09 74.80 34.92 54.13 27.57 18.93 110.47 131.77 174.90 134.03 125.80 439.18 663.28 917.55 Source: Forest Governance & Protection Department of Bac Kan Province 116 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Impacts on slash-and-burn practice and non-optimal exploitation of forest products. Majority (95%) of the households covered by the interviews said that deforestation, slashand-burn cultivation no longer exists on the allocated forest land because most of the forest land has been already managed. In 1996, forest land allocation, forest law dissemination, sloping agricultural land technology (SALT) training, afforestation, fruit tree planting have been supported. Illegal logging and collection of fuel wood have reduced considerably, but the problem still exists in some other unallocated forestlands. The local people notice that the forest cover area has increased rapidly. Impacts on forest plantation and enrichment, and forest protection. The land allocation activities have an impact on the afforestation with high value tree species such as cinnamon, chukrasia, manglietia. These tree species grow rapidly and can adapt to climate and land conditions. Of the total households applying for loans, 48% used loans for planting forest and fruit trees. It is noted from the interviews that 50% of the households invested in planting forest and fruit trees and establishing farms. The farmers have utilized 50-60% of loans to nursery establishment and purchase of seedlings, 3040% to livestock to 10% to other activities. Findings of this study in agreement with study of program impact assessment by Dang Kim Vui and Le Tien Phong (1998). The survey showed that 263 households used loans for forest establishment, representing 70% of the total loan takers, 62% invested in forest enrichment, making up 16.5% of the overall loan-taking households, while the 179 households took credit to plant fruit trees. The farmers foresee that afforestation, and forest enrichment will intensify in the coming years, for many households are now preparing seedlings, and digging ditches. Impacts on the management and protection of unallocated forests and forestland. Majority (90%) of interviewed households said that collecting firewood, logging, and 77(01): 107 - 122 uncontrolled grazing are common activities in unallocated forests. It is said that there is increasing pressure on unallocated forests as well as on the protection and management of allocated forests due to the provision of credit, which makes it possible for some farmers to buy more cows and buffaloes. Unallocated forests and forestland are normally those located on Limestone Mountains with very steep slope and far from residential areas. So far no management solution has been found for these forests and forestland. Impacts on household’s income. The interviews indicated that 28% of loan-taking households have obtained incomes principally from raising pork, breeding pig, fish, and eggoriented chicken. The income from these activities averages 24% of one household‟s total annual income. Ngoc Phai commune‟s households saw a slight increase in income from taking loans, used mainly for animal raising. In communes, the households could foresee a vigorous increase in future income, mainly from fruit tree, special tree, and forest tree planting. The income from such other activities as the processing of agriculture and forest products was said to be also going up but at slower speed. The farmers showed great confidence in household economy development through development of farm-level development of high economic tree species. Some 67% of interview respondents said their major incomes came from fruit, and forest trees. This is an evidence showed that the land allocation, though operating for a short time 1992-1997, contributed to households‟ improved incomes. Five million hectares reforestation program (5MHRP) 1998-2010. Decision No. 661/QDTT dated 29 July 1998, the Tenth National Assembly of Vietnam approved a new National Forestry Program, which seeks to reforest and rehabilitate five million hectares of forest land. The 5MHRP was carried out from 1998-2005 (first phase) and 2005-2010 for (second phase), such that by 2010 the total 117 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ forest area of the country will reach 14.3 million hectares (equivalent to 43 percent forest cover). The five million ha is derived from the calculation that this would restore forest cover to its 1943 level. In line with this ambitious target, the GOV and donors agreed to develop a partnership to support the Five Million-hectare Reforestation Program (5MHFP). The 5MHRP showed the Government‟s Commitment and priority given to forestry sector and responds to the Rio Declaration and Agenda 21 that emerged from the 1992 United Conference on Environment and Development. The 5MHRP is designed to achieve the objectives, set by the Resolution 08 and the Decision 661, which are very broad and have extensive cross-sectoral implications. The 5MHRP can be regarded as the latest in a series of government efforts to promote reforestation. Forest land contracts and plantation. As stated in Decision No. 187, State Forest Enterprises (SFEs) are required to allocate and contract forestland under their control to third parties for long-term use or protection, in accordance with Decree No.01 CP. In return, these third parties are entitled to specify benefits from the main forest products. With Decree No.200 (2004), it was decided that forestry companies could select the most efficient forest and forestland contracts in accordance with the existing regulations. In practice, forestland allocated under long-term contracts accounts for only 31.2% of the land under control of the SFEs, while 53.69% has already been given out under annual contracts. The remaining area has been contracted out on periodical and work volume bases. In the case of protection forest, priority is given to contracting households; especially those that are part of a resettlement group, poor, or live adjacent to forests. When accepting a forest protection contract, households sign annual contracts with their respective District Forest Protection Unit, a Program 661 Management Board or an SFE. Payment is per ha of land under contract. 118 77(01): 107 – 122 Regulations set the payment amount for the protection of one ha of contracted forest at 50,000 VND/year in 2005 (about USD 3), an amount widely considered to be too low. Per ha payments made under plantation contracts, however, are much higher. Sikor and Truong (2001) recorded such payments during the second half of the 1990s at 1.7 million VND but contracted households spent about VND 700,000 to buy seedlings. Final payment depends on the number of surviving trees after one year. During the initial years, people can plant alternative crops together with the tree seedlings. Nguyen (2001) estimated that the VND 1.7 million payments only accounted for 60% of the total expenses of about USD 300/ha. Reports suggested that tree plantation contracts are gaining popularity across country. Survey result shows that a total of forest plantation areas of commune were 70.22 ha in 1990, 120.07 ha in 1995, 142.89 ha in 1998 and 192.79 ha in 2005. 11.8 ha forests were planted for pulp materials, accounted for 2,950 trees with 68 participated households. And continue to investigate forests under project 661 having 682 ha and 119 participated households for manage and protection of forest through forest contacts. Enriched forest with 46.23 ha, protected 582.312 ha, harvested 250 tons of toothpick materials and other wood 150 m3. Land Law of 1993. A new Land Law was enacted in July 1993, which became effective October 14, 1993. The new law provides for the allocation of land to organizations, individuals and households for long-term and stable use. The period of land allocation is 20 years for annual crops and 50 years for other perennial crops and forestry. The tenure can be renewed on expiry, if the land-users need to do so and if they have used the land properly according to law. All land-users will be given land-use right certificates (LURCs). In addition, Decree No. 64, which the Communist Party (CP) issued in September 1993, and Decree No. 02 (issued on 15 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ January 1994) have provided measures for regulating the allocation of agricultural land and forestland respectively. The government passed an ordinance on 15 March 1994 for the regulation of land-use above specified ceilings. All these measures are intended to create a land tenure system that will be conducive for sustainable agricultural and rural development. The Land Law of 1993, a comprehensive land administration law, states that land belongs to the people, with the State as its sole administrator, reserving the right to allocate land and determine its usage. Every commune is required to keep up to 5 percent of its agricultural land for welfare or public benefit. The State maintains the land-use classification system, which determines landuse, which helps to preserve scarce agricultural land. The State also determines the value of land for purposes of taxes and compensation. The Land Law clarifies the rights of people to use and transfer real property and assets, based on certificates issued by local government. Families and individuals who have been allocated land have the right to exchange their land, transfer the use rights to others, rent the land for a period of three years, bequeath it or use it as collateral. Use rights are generally renewed after 20 or 50-year periods. These provisions effectively required the state administration to allocate all land to specific owners and, with the granting of the land-use certificate (LUC), to transfer responsibility for land management to individual households, groups, organisations and institutions. This policy thus implied a substantial disengagement of the State from the task of managing the country‟s land and forest resources. At the same time, the State is assuming the responsibility to carry out the required land administration procedures and to provide assistance to the land-users with regard to proper land management and protection. Land policies that distribute land to individuals and assign LUR (i.e., some degree 77(01): 107 - 122 of private property rights) allow the development of land markets that can bring about an efficient allocation of resources, given certain conditions. Because welldefined and enforceable private property rights are one of these necessary conditions, efficient allocation of resources depends on the nature of prevailing property rights (Perman et al 1999). In 1998, the government announced amendments to the Land Law, which divided land into six categories: forest land, agricultural land, rural residential land, urban land, special land and unused land. Forestland was divided into forested land and nonforested land planned for reforestation. The 1998 Land Law makes a distinction between "plantation forest" and "natural forest" (MARD, 2001). The 1998 Land Law amendment allows organizations, but not individuals, to use the value of timber growing on allocated forest land for mortgages. Organizations can also use the land as capital contribution for forestry joint venture projects. The land tenure right. The Land Law in 1993 confirmed the 1991 Law on the Protection and Development of Forests on the transfer of responsibilities for land from the State and collective organizations to nonstate/collective entities. The State retained regulatory and monitoring functions. As part of its revised land-used policies, the GOV has adopted a system of land-use planning and land-use certificates for both agricultural and forest land. Individuals, cooperatives, stateowned enterprises (SOEs) including state forest enterprises (SFEs) and other entities can obtain either provisional or permanent land-use certificates, respectively called “green books” and “red books”. Some land that was previously managed by cooperatives and SOEs is being reallocated to individual households. Land-use certificates can be issued for 20 years for annual crops (agricultural land) and 50 years for perennial crops (forest land). As of 1999, land-use rights had been allocated for almost 86 percent of agricultural land but relatively little forestland (9.8 percent) (MARD, 2001). 119 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ In the study site, land-use certificates were granted to households with a total of 31.66 ha and 440.00 land-use certificates (LUC). (Table 5). On this LUC showed that state allocated rights of land-use to households with permanent use on residential and garden land. Financial aids in forestry development. Since Vietnam has implemented to transform from a subsidized central mechanism to a market economy, there were a lot of financial aids from donors in order to shift in forest and agricultural development. Under resettlement program 1990-1996. Ngoc Phai commune was granted 448,270,000VND. Of which, the grant money was 408,570,000VND and 39,700,000VND granted without interest fee, with supporting purposes of producing activity 195,170,000VND, 210,820,000VND for infrastructure construction, 42,000,000VND for local people support and 0,28 million VND for administration fees. (Report of General Project of Resettlement and New Economics Zone Development, 1998-2010, Cho Don, 1998). Under the Vietnam-Finland forestry sector cooperation program, 1997. There were 243/376 households received 417,547,500 VND credit (average 1,718,320 million VND per household) in order carry out planned activities in allocated forestland. Most farmers have been able to pay the interests without major problem, and some farmers have already started to pay back the loan, even before the maturity. The farmers have 77(01): 107 – 122 utilized 50-60% of loans to nursery establishment and purchase of seedlings, 3040% to livestock to 10% to other activities (Technical Report No. 15, Department of Agriculture and Rural Development of Bac Kan Province). Vietnam Bank for the Poor (VBP). The volume of the Vietnam Bank for Poor (VBP) loans on 31 December 1996 was 395 million VND, of which loans for the poor was 195 million VND. Number of borrowers was 197. The outstanding loan for the poor was 29.5 million VND in Na Tum village and 6.5 million VND in Coc Thu village. Program VIE-508 of CIDSE. In Ngoc Phai commune, Na Tum village, the outstanding loan in 1996 was 3.5 million VND for 13 households of the total number of 56 households in the village. The Vietnam - France program. The outstanding loan of Ngoc Phai commune was VND 18 million in 1996. The credit scheme of the Program aimed at making the farmers to see investments in the forest area as a profitable alternative for upland forest harvesting or conversion of forestland to agricultural land. The possible investment included various production alternatives: from more or less traditional timber growing to agro-forestry (silvo-pastoral and apicultural activities and production of non-wood forest products (NWFP) as well as integration of fruit and spice producing tree. The right to use forestland has been recently given to households. Table 5. Number of land-use certificates (red book) and its distribution in Ngoc Phai villages, 2001-2004 VILLAGES Phieng Lieng 1 Phieng Lieng 2 Ban Cuon 1 Ban Cuon 2 Coc Thu Na Tum Ban Om Ban Dieu Total ALLOCATED AREA (HA) 3.27 2.13 5.29 4.08 3.71 5.75 2.84 4.58 31.66 Source: People’s committee of Ngoc Phai Commune 120 NUMBER OF LAND-USE CERTIFICATE (SHEET) 36 43 68 55 43 72 51 72 440 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ The households perceived the need to afforest, conserve and enrich the given forest land, in order to earn income from it. As a result, the demand for forestry financing is increasing. In summary, the supply of financing for forest sector development has not met the demand. The support from the government budget is mainly aimed at improving the dilapidated infrastructure. Subsidized credit from the VBP has been provided mainly for solving poverty problems. Self-accumulated capital is limited in the district. There are only few households who have invested in the use of forestlands, mainly by planting fruit trees (orange, mandarin, apricot), pineapple or special trees (cinnamon, anise). CONCLUSIONS This study sought to determine the Driving Forces of Forest Land-Use Change during Doi Moi (renovation) era in Ngoc Phai commune, Cho Don District, Bac Kan Province, Vietnam (1990-2005). Macrodrivers or (proximate causes). These include the wood extraction and slash-andburn practices, cattle ranching, and shift in agricultural expansion. Microdrivers or the (underlying causes). These consist of the indirect factors that affect forestland-use change such as Land Allocation Program 1992-1997, Five Million Hectare Forest Restoration 1998-2010, Land Law 1993, Financial Aids in Forest Development, and Market conditions, biophysical, demography. Overall, the study found the following: - Change in policies and market conditions are the major factors that could explain the rapid changes in forest land-use in Ngoc Phai. - The institutional and market driving forces have not only led to rapid deforestation (forest conversion) due to the expansion of agricultural but have affected the commune‟s cropping pattern. - National policies are active promoters of forest land allocation to individuals, households, communes and other economic organizations. These affect the improvement forest and land management, give local people a better land-use right and ensure protection of forest resources. 77(01): 107 - 122 - The most positive environmental impact is the reduction of the slash-and- burn activities. Forest plantations and sustainable agroforestry systems with high productivity and soil conservation ability have been established in exchange. - The areas covered by new plantation have increased as a result of forest enrichment and restoration activities. - Land-use certificates were granted to most of individuals and households who qualified with the necessary conditions for granting land-use right. - Grazing posed a big problem to the production activities in the local area. Farmers released buffaloes and cows and completely destroyed their farms. - Timber cutting in unallocated areas remained and farmers refused to receive remote forest areas. Slash-and-burn practices still continue in some places which in the long run, degrade the forests. REFERENCES [1.] CASTELLA, J. C. and D.Q. DANG (2002) Doi Moi in the mountains. Land use changes and farmers’ livelihood strategies in Bac Kan Province, Vietnam, The Agricultural Publishing House, Vietnam. 47–71. [2.] CASTELLA, J. C, P. H. MANH, S. P. KAM, L.VILLANO, and N. R. TRONCHEA (2005) Analysis of village accessibility and its impact on land use dynamics in a mountainous province of Northern Vietnam. Applied Geography 25 (2005) 308–326. [3.] Dam Viet Bac (2007). Forest land-use change in Ngoc Phai commune, Cho Don district, Bac Kan province, Vietnam (1990-2005), Msc. thesis, UPLP Phillipine. [4.] SIKOR, T. (2001) The allocation of forestry land in Vietnam: did it cause the expansion of forests in the Northwest. Journal of Forest Policy and Economics 2 (2001) 1-11. [5.] SIKOR, T. and D. M. TRUONG (2002) Agricultural policy and land use changes in Black Thai villages of Northern Vietnam, 1952-1997, in: Mountain Research and Development, 22 (2002) 248-255. [6.] DANG, K. VUI and L. T. PHONG. 1998. Programme's impact assessment. Technical Report No. 15. 121 Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 – 122 TÓM TẮT CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT TẠI Xà NGỌC PHÁI, HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN, VIỆT NAM (1990-2005) Đàm Việt Bắc, Đàm Xuân Vận* Trường Đại học Nông Lâm - Thái Nguyên Nghiên cứu đƣợc tiến hành tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các nhân tố ảnh hƣởng chính đến sự biến động sử dụng đất trong 15 năm qua (1990-2005) của thời kỳ Đổi mới ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Các nhân tố ảnh hƣởng trực tiếp đến sự thay đổi sử dụng đất bao gồm khai thác gỗ và phát rẫy làm nƣơng, du canh, chăn thả gia súc, các yếu tố nhân khẩu học, các yếu tố sinh học (đất thoái hóa) và các yếu tố vật lý (độ dốc, độ cao và khoảng cách từ vị trí của các loại đất thay đổi đến đƣờng chính). Ngƣợc lại, nhân tố gián tiếp của sự biến động sử dụng đất bao gồm chƣơng trình giao đất 19921997, chƣơng trình năm triệu ha phục hồi rừng 1998-2010, Luật Đất đai năm 1993, tín dụng và tài trợ trong phát triển lâm nghiệp. Trong giai đoạn đầu (1990-1998), việc thực hiện các chƣơng trình giao đất rừng đã phát triển trong khu vực nghiên cứu. Tuy nhiên, tỷ lệ phá rừng cao đã xảy ra tại các khu vực chƣa giao đất rừng. Trong giai đoạn thứ hai (1998-2005), sau khi thực hiện chƣơng trình giao đất, định hƣớng thị trƣờng và thay đổi công nghệ đã tạo ra hiệu ứng khác nhau trên cả hai là có đƣợc sự phục hồi diện tích rừng và mất đi của các khu vực rừng. Thời kỳ này đánh dấu một sự chuyển biến mạnh kinh tế về hoạt động sản xuất nông nghiệp và hỗ trợ từ chƣơng trình của chính phủ. Tuy nhiên, bảo vệ và quản lý rừng dƣờng nhƣ ít hiệu quả hơn so với thời kỳ đầu tiên, trong quá trình thực hiện giao đất. Từ khoá: Các nhân tố, biến động sử dụng đất, khu vực miền núi, miền Bắc Việt Nam * Tel: 0982166696; Email: damxuanvan@yahoo.com 122 Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 - 130 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA SIMVASTATIN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƢỜNG TYP2 CÓ KHÁNG INSULIN Nguyễn Kim Lƣơng* Bệnh viện Đa khoa TƯ Thái Nguyên TÓM TẮT Mục đích nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị của simvastatin ở bệnh nhân đái tháo đƣờng typ2 có kháng insulin. Đối tƣợng và phƣơng pháp: 185 đối tƣợng nghiên cứu gồm: Nhóm đái tháo đƣờng gồm 145 bệnh nhân, nhóm chứng gồm 40 ngƣời không đái tháo đƣờng. Đánh giá tình trạng kháng insulin bằng chỉ số HOMA-IR (HOMA-IR=I0(µu/ml)x G0(mmol/l)/22,5) Sau khi xác định đƣợc 107 ngƣời đái tháo đƣờng có kháng insulin, đƣa ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm đƣợc dùng Sulfonylurea đơn thuần và nhóm dùng sulfonylurea kết hợp với simvastatin. Đánh giá hiệu quả của simvastatin thông qua các chỉ số gluccose, HbA1c, lipid trƣớc và sau 2 tháng điều trị. Kết quả: Nhóm dùng simvastatin có các thành phần lipid máu trung bình và tỷ lệ trong giới hạn bệnh lý của các chỉ số: cholesterol, triglyceride, LDL-C thấp hơn, HDL-C cao hơn, hiệu quả của kiểm soát glucose máu mức độ tốt hơn nhóm không dùng simvastatin: glucose, HbA1c, insulin, chỉ số kháng insulin giảm, tăng tỷ lệ kiểm soát glucose máu tốt và giảm tỷ lệ kiểm soát glucose máu kém, với p < 0,05. Kết luận: điều trị kết hợp simvastatin cho bệnh nhân đái tháo đƣờng typ2 có kháng insulin sẽ làm tăng hiệu quả kiểm soát lipid và glucose máu. Từ khoá: Đái tháo đường typ2, kháng insulin, chỉ số HOMA – IR, simvastatin ĐẶT VẤN ĐỀ* Đái tháo đƣờng typ 2 có quá trình diễn biến phức tạp sự thiếu hụt insulin và đề kháng insulin đã gây ra nhiều khó khăn cho việc theo dõi, điều trị. Kháng insulin có mối liên quan với những yếu tố nguy cơ nhƣ: béo phì, rối loạn lipid máu tăng huyết áp đã tạo ra một vòng xoắn bệnh lý làm cho sự tiến triển của bệnh đái tháo đƣờng typ 2 ngày càng phức tạp. Điều trị đái tháo đƣờng typ 2, ngoài việc điều trị thuốc giảm đƣờng máu cần phải điều trị phối hợp các yếu tố nguy cơ đi kèm trong đó đặc biệt là giảm triglycerid, giảm LDL –C, tăng HDL –C thì mới mang lại hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho ngƣời bệnh. Simvastatin là một thuốc điều trị rối loạn lipid máu, thuốc đƣợc chỉ định để làm giảm tổng hợp LDL, giảm cholesterol, giảm triglycerid từ đó giảm nguy cơ biến chứng bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đƣờng typ 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn chuyển hoá lipid bằng simvastatin ở bệnh nhân đái tháo đƣờng typ2 có kháng insulin. * Tel: 0982852165; Email:drluongtn@yahoo.com.vn ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tƣợng nghiên cứu * Nhóm bệnh: bệnh nhân đái tháo đƣờng typ 2 lần đầu hoặc đang đƣợc theo dõi định kỳ điều trị bằng thuốc uống hạ đƣờng máu, theo tiêu chuẩn chẩn đoán và phân typ ĐTĐ của ADA (American Diabetes Association) năm 1997 và đƣợc WHO công nhận năm 1998. * Nhóm chứng Gồm 40 ngƣời khoẻ mạnh không bị mắc bệnh ĐTĐ, tuổi > 40 tình nguyện tham gia nghiên cứu để đánh giá tình trạng kháng Insulin ở nhóm nghiên cứu. Đánh giá tình trạng kháng insulin bằng chỉ số HOMA-IR = I0 (µu/ml)x G0(mmol/l)/22,5. Theo khuyến cáo của tổ chức Thế Giới kháng insulin đƣợc xác định khi chỉ số HOMA-IR lớn hơn tứ phân vị cao nhất trong nhóm chứng. * Chọn bệnh nhân ĐTĐ typ 2 có kháng insulin ngẫu nhiên vào 2 nhóm: Nhóm 1: Điều trị Sulfonylurea (nhóm không simvastatin). 123 Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 – 130 Tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân đái tháo đƣờng týp 2. Chỉ số HOMA-IR đƣợc tính theo công thức của Matthews năm 1985. Theo WHO gọi là có kháng insulin nếu chỉ số HOMA-IR lớn hơn tứ phân vị cao nhất của nhóm chứng (HOMA-IR nhóm chứng đƣợc sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tƣơng ứng với giá trị thứ (0,75×n+1). Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi tứ phân vị cao nhất của nhóm chứng là 1,48. Nhƣ vậy chúng tôi lấy chỉ số HOMAIR từ mức ≥1,48 đƣợc gọi là có kháng insulin kết quả thể hiện trên bảng 2 và bảng 3. Một số thay đổi ở bệnh nhân ĐTĐ typ2 có kháng insulin sau điều trị bằng simvastatin 107 bệnh nhân ĐTĐ typ2 có kháng insulin chúng tôi chọn ngẫu nhiên vào 2 nhóm điều trị, một nhóm dùng simvastatin 54 ngƣời, một nhóm không dùng simvastatin 53 ngƣời kết quả thu đƣợc thể hiện trên bảng 4, 5, 6, 7, 8, 9. Nhóm 2: Điều trị Sulfonylurea kết hợp Simvastatin (nhóm simvastatin). Tất cả bệnh nhân này không dùng thuốc điều trị giảm lipid máu trƣớc đó một tháng. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ 3/2010 đến 10/2010. - Địa điểm: Khoa khám bệnh bệnh viện Đa khoa Trung ƣơng Thái Nguyên. Xử lý theo phƣơng pháp thông số y sinh học bằng phần mềm SPSS 13.0 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Qua nghiên cứu 185 đối tƣợng: Nhóm đái tháo đƣờng gồm 145 bệnh nhân, nhóm chứng gồm 40 ngƣời, chúng tôi thu đƣợc kết quả đƣợc thể hiện trên bảng 1. Bảng 1. Đặc điểm tuổi, giới, chiều cao, cân nặng giữa hai nhóm Đặc điểm Tuổi Chiều cao Cân nặng Giới Nhóm chứng 58,8±8,1 1,66±0,06 62,5±5,3 Nhóm Bệnh 59,2±6,4 1,65±0,05 61,8±6,5 Nam 17 (42,5,0%) 62 (41,7%) Nữ 23 (57,5%) 40 (100) 83 (57,3%) 145 (100) Tổng p > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 * Nhận xét: Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về tuổi, chiều cao, cân nặng và giới tính Bảng 2. Tỷ lệ kháng insulin, chỉ HOMA-IR trung bình ở hai nhóm Nhóm Chỉ số HOMA-IR ≥ 1,48 HOMA-IR ≤ 1,48 HOMA-IR ( X SD ) Nhóm chứng (n=40) Nhóm bệnh (n=145) n % n % 10 30 25 75 107 38 73,8 26,2 1,32±1,60 2,72±1,71 P < 0,05 < 0,05 * Nhận xét: có 73,8% bệnh nhân ĐTĐ trong nhóm nghiên cứu có tình trạng kháng insulin. Bảng 3. Nồng độ glucose, insulin ở nhóm ĐTĐ có kháng insulin và ĐTĐ không kháng insulin Thông số Glucose (mmol/l) X SD Insulin (µU/ml) X SD ĐTĐ không kháng insulin (n=38) ĐTĐ có kháng insulin (n=107) P 5,07±1,47 6,45±1,69 < 0,05 5,38±1,57 12,67±2,95 < 0,05 * Nhận xét: Nồng độ glucose, insulin máu ở nhóm ĐTĐ có kháng insulin cao hơn hẳn so với nhóm ĐTĐ không kháng insulin. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 124 Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 - 130 Bảng 4. So sánh tuổi đời, thời gian phát hiện bệnh(TGPHB), chỉ số BMI, vòng bụng/ vòng mông, HA, glucose máu, HbA1c giữa hai nhóm Simvastatin (n=54) 59,4±0,9 24,3±1,4 0,89±0,1 139,44±10,80 88,37±1,52 6,57±2,07 7,23±1,12 2 (3,7%) 47 (87%) 4 (7,4%) Chỉ số nghiên cứu Tuổi (năm) BMI (kg/m2) VB/VM HATT (mmHg) HATTr (mmHg) Glucose (mmol) HbA1c TGPHB <1năm 1-5 năm >5năm Không simvastatin (n=53) 58,1±1,0 23,9±1,4 0,88±0,1 138,49±9,14 89,45±1,54 6,43±1,17 7,15±1,12 1 (1,8%) 48 (90,5%) 5 (9,4%) P > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 * Nhận xét: Không có sự khác biệt về tuổi đời, thời gian phát hiện bệnh, chỉ số BMI, VB/VM, HA trung bình, glucose, insulin máu giữa hai nhóm. Bảng 5. Nồng độ glucose, tỷ lệ HbA1c trung bình trƣớc và sau điều trị Chỉ số Glucose (mmol/L) HbA1C (%) Simvastatin (n = 54) Trƣớc ĐT Sau ĐT(a) P Không simvastatin (n = 53) Trƣớc ĐT Sau ĐT(b) P P(a,b) 6,57±2,07 5,85±1,15 < 0,05 6,43±1,17 6,07±1,28 > 0,05 < 0,05 7,23±1,12 6,70±0,13 < 0,05 7,15±1,12 7,02±0,95 > 0,05 < 0,05 * Nhận xét: Nhóm dùng simvastatincó nồng độ glucose máu, HbA1c sau điều trị giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị. Nồng độ glucose máu, HbA1c sau điều trị ở nhóm dùng simvastatin thấp hơn so với nhóm không dùng simvastatin, với p< 0,05. Bảng 6. Chỉ số lipid máu trung bình trƣớc và sau điều trị Chỉ số Triglycerid Cholesterol HDL-C LDL-C TrƣớcĐT 3,50±0,26 5,02±0,15 1,22±0,12 3,13±0,01 Simvastatin (n=54) SauĐT(a) 2,20±0,17 4,52±0,16 1,29±0,05 2,46±0,10 Không Simvastatin (n=53) TrƣớcĐT SauĐT(b) 2,65±0,20 2,82±0,27 4,81±0,14 5,07±0,13 1,09±0,03 1,13±0,03 2,99±0,12 3,02±0,12 P < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 P(ab) P > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 * Nhận xét: Nhóm dùng simvastatin: chỉ số lipid máu trung bình (triglycrid, cholesterol, LDL-C) sau điều trị giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị. Nhóm dùng simvastatin nồng độ lipid máu giảm so với nhóm không dùng simvastatin, với p < 0,05. Bảng 7. Tỷ lệ rối loạn lipid máu trƣớc và sau điều trị Chỉ số Lipid bệnh lý (mmol/l) Triglycerid (≥ 2,3) Cholesterol (≥ 5,2 ) HDL-C (≤ 0,9) LDL-C (≥ 3,1 ) Simvastatin(n=54) Trƣớc ĐT Sau ĐT (a) n % n 30 55,5 28 13 24,0 11 % 51,8 20,3 n % n % 15 27,7 22 40,7 11 20,3 7 12,9 Không Simvastatin (n=53) P <0,05 <0,05 >0,05 <0,05 Trƣớc ĐT Sau ĐT (b) 28 52,8 17 25 47,1 19 32,0 35,8 14 26,4 16 30,1 11 20,7 15 28,3 P P(ab) >0,05 <0,05 >0,05 <0,05 >0,05 >0,05 >0,05 <0,05 * Nhận xét: Tỷ lệ rối loạn các thành phần lipid máu (triglyceride, cholesterol, LDL-C) ở nhóm có dùng simvastatin giảm rõ rệt so với nhóm không dùng simvastatin. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 125 Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 – 130 Bảng 8. Nồng độ insulin máu, chỉ số kháng insulin trƣớc và sau điều trị Simvastatin (n=54) Chỉ số Insulin HOMA-IR HOMA n -IR % (≥1,48) Không Simvastatin (n=53) P(a,b) Trƣớc ĐT SauĐT(a) P Trƣớc ĐT Sau ĐT(b) P 12,48±6,77 3,58±1,36 54 5,22±3,82 1,45±1,25 36 <0,05 <0,05 12,83±4,90 3,26±1,52 53 11,36±7,88 3,07±1,99 42 >0,05 >0,05 <0,05 <0,05 100 66,6 100 79,2 <0,05 <0,05 <0,05 * Nhận xét: Nhóm dùng simvastatin: insulin và chỉ số kháng insulin theo HOMA-IR sau điều trị giảm so với trước điều trị với p< 0,05. Số người kháng insulin sau điều trị là 36 người (66,6%) so với trước điều trị 54 người(100%), với p<0,05. Bảng 9. Nồng độ glucose máu, tỷ lệ HbA1c trƣớc và sau điều trị Chỉ số Tốt Trung bình kém Tốt Trung bình kém Glucose HbA1c Simvastatin (n = 54) Không simvastatin (n = 53) Trƣớc ĐT Sau ĐT(a) p Trƣớc ĐT Sau ĐT(b) p 25(46,3) 36(66,6) <0,05 26(49,0) 30(56,6) >0,05 11(29,4) 10(18,6) >0,05 11(20,7) 11(20,7) >0,05 18(33,3) 8(14,8) <0,05 16(30,1) 14(22,6) >0,05 12(22,2) 25(46,3) <0,05 22(41,5) 16(30,1) >0,05 18(33,4) 15(27,8) >0,05 11(20,7) 24(45,2) <0,05 24(44,4) 14(25,9) <0,05 20(37,7) 13(24,5) <0,05 P(a,b) <0,05 >0,05 <0,05 <0,05 <0,05 >0,05 * Nhận xét: - Nhóm được điều trị kết hợp simvastatin có tỷ lệ kiểm soát tốt sau điều trị cao hơn cao hơn so với trước điều trị cả về glucose và HbA1c và tỷ lệ glucose và HbA1c mức độ kiểm soát kém sau điều trị nhỏ hơn so với trước điều trị, với p< 0,05. - Nhóm không dùng simvastatin: không thấy sự khác biệt về tỷ lệ kiểm soát tốt và kém trước và sau điều trị, với p> 0,05. Bảng 10. Nồng độ creatinin, SGOT, SGPT, tiểu cầu trung bình trƣớc và sau điều trị Chỉ số Creatinin SGOT SGOP Tiểu cầu Simvastatin (n=54) Trƣớc ĐT Sau ĐT 75,59±10,56 72,84±16,69 27,75±8,12 27,44±8,04 30,87±11,63 30,31±11,54 325,30±29,08 321,43`±30,19 P >0,05 >0,05 >0,05 >0,05 Không Simvastatin (n=53) Trƣớc ĐT Sau ĐT P 75,59±10,44 72,84±12,26 >0,05 27,46±7,04 28,62±10,15 >0,05 32,29±11,90 33,95±12,60 >0,05 317,36±24,85 316,07±23,75 >0,05 * Nhận xét: Không có sự khác biệt về nồng độ trung bình creatinin, SGOT, SGPT, tiểu cầu trước và sau điều trị giữa hai nhóm, với p>0,05. BÀN LUẬN Tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân đái tháo đƣờng. Kháng insulin hiện nay đƣợc coi là một cơ chế bệnh sinh quan trọng của tình trạng rối loạn dung nạp glucose và đái tháo đƣờng, kháng insulin cũng liên quan chặt chẽ với các yếu tố nguy cơ khác nhƣ béo phì, tăng HA, ĐTĐ. Nhiều công trình nghiên cứu đều cho rằng kháng insulin là yếu tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ và kháng insulin thƣờng có trƣớc ĐTĐ 126 5- 10 năm. Phát hiện sớm tình trạng kháng insulin và cải thiện độ nhạy của insulin có thể làm chậm cũng nhƣ làm giảm nguy cơ ĐTĐ typ 2 và các biến chứng. Để đánh giá kháng insulin có rất nhiều phƣơng pháp và chỉ số đánh giá kháng insulin. Phƣơng pháp đƣợc coi là chính xác nhất hay “tiêu chuẩn vàng ”đó là phƣơng pháp “kẹp” glucose. Nhƣng phƣơng pháp này rất phức tạp phải lấy máu nhiều lần (30lần/3giờ). Rất khó thực hiện nên ít đƣợc áp dụng trong nghiên cứu thực hành lâm sàng. Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ Hiện nay phƣơng pháp đánh giá nội sinh (HOMA- Homeostasis Model Assessment) là phƣơng pháp đƣợc phổ biến rộng rãi nhất đƣợc Matthews đề xuất năm 1985 và WHO đã công nhận năm 1995. Đây là phƣơng pháp đơn giản, dễ thực hiện và khá chính xác khi so sánh với phƣơng pháp “kẹp”glucose. Nhiều công trình nghiên cứu cho rằng: tăng nồng độ insulin lúc đói, tăng chỉ số HOMAIR đồng thời giảm pha tiết sớm của insulin là yếu tố dự báo cho sự phát triển của bệnh nhân ĐTĐ. Nghiên cứu của Heinz Drexel cho thấy chỉ số HOMA-IR tăng cao rõ rệt ở nhóm bệnh ĐTĐ typ 2 là 5,62±3,79 và cao hơn nhiều so nhóm chứng 1,74±1,12. Kết quả nghiên cứu của chúng tôỉ ở nhóm chứng là những ngƣời khoẻ mạnh không mắc bệnh ĐTĐ, chúng tôi xác định giá trị cắt của HOMA-IR (tứ phân vị nhóm chứng) là 1,48. Chỉ số kháng insulin HOMA-IR nhóm bệnh 2,72±1,17, cao hơn nhóm chứng 1,32±1,60 sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Tỷ lệ kháng insulin theo chỉ số HOMA-IR ở nhóm bệnh ĐTĐ là 107 ngƣời chiếm 73,8%. Tỷ lệ kháng insulin trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Đức Hoan, tỷ lệ kháng insulin theo HOMA-IR là 46,8%. Sự khác biệt này do đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi là bệnh nhân ĐTĐ còn đối tƣợng nghiên cứu của Nguyễn Đức Hoan là những bệnh nhân có rối loạn dung nạp glucose. Một số thay đổi sau điều trị bằng Simvastatin ở bệnh nhân đái tháo đƣờng typ2 có kháng insulin. ĐTĐ typ 2 gây nhiều tác hại trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng ngƣời bệnh. Nguyên nhân dẫn đến sự nguy hại này không chỉ là do tăng mức glucose máu mà còn do phức hợp các rối loạn chuyển hoá khác tham gia vào quá trình tiến triển của bệnh, đặc biệt là rối loạn chuyển hoá lipid. Simvastatin là một thuốc giảm lipid máu thuốc có tác dụng hoạt hoá men HGM – CoA – reductase làm giảm tổng hợp choleseterol trong tế bào gan và tăng hoạt hoá thụ thể LDL do đó làm giảm LDL – C tới 60% và giảm Triglycerid tới 37%. Simvastatin có tác dụng tăng thu nhận LDL làm giảm LDL huyết 77(01): 123 - 130 tƣơng và giảm cholesterol. Đã có nhiều công trình nghiên cứu chứng minh đƣợc các simvastatin có thể làm giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân bị bệnh mạch vành có tăng lipid máu, giảm tỷ lệ phải can thiệp ở bệnh nhân sau can thiệp động mạch vành hoặc mổ cầu nối chủ vành. Nghiên cứu của chúng tôi gồm107 bệnh ĐTĐ typ2 có kháng insulin đƣợc chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm dùng simvastatin 54 bệnh nhân, nhóm không dùng simvastatin 53 bệnh nhân. Trƣớc điều trị giữa hai nhóm không có sự khác biệt về các chỉ số nghiên cứu: tuổi đời, thời gian phát hiện bệnh, chỉ số BMI, VB/VM, HA, glucose, HbA1c, tỷ lệ rối loạn lipid chung tƣơng đối cao chiếm (79,3%). Kết quả điều trị ở nhóm dùng simvastatin cho thấy: Cholesterol tăng trƣớc điều trị 51,8% bệnh nhân, sau điều trị còn 20,3% bệnh nhân. Triglycerid tăng trƣớc điều trị 55,5%, sau điều trị còn 24,0%. LDL-C tăng trƣớc điều trị 40,7%, sau điều trị còn 12,9%. HDL-C giảm trƣớc điều trị 27,7%, sau điều trị còn 12,7% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Tỷ lệ các thành phần lipid trung bình so sánh trƣớc và sau điều trị ở nhóm dùng simvastatin cũng đƣợc cải thiện rõ rệt. Ở nhóm không dùng simvastatin không có sự thay đổi về tỷ lệ rối loạn lipid máu trƣớc và sau điều trị với p> 0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tƣơng tự nhƣ một số nghiên cứu khác nhƣ: Nghiên cứu của 4S (Scandinavian Simvastatin survival study) trên 4444 bệnh nhân dùng simvastatin so với placebo theo dõi 5,4 năm thấy thuốc làm giảm triglycerid 25%, LDL-C 39%, cholesterol 10%, tăng HDL-C 8%. Nghiên cứu Mass (Mullicenter Anti- Atheroma Study) điều trị simvastatin 10mg/ngày làm giảm triglycerid 23%. LDL-C 31%, tăng HDL-C 9%. Lợi ích điều trị rối loạn lipid máu của simvastatin: giảm số lƣợng phân tử LDL-C oxy hoá, giảm lipid trong mảng vữa xơ, giảm khả năng nứt loét mảng vữa xơ, hạn chế sự tăng và làm thoái triển mảng vữa xơ, phục hồi chức năng nội bào, ức chế kết tập tiểu cầu, giảm nguy cơ đông máu. Nghiên cứu bảo vệ tim HPS (Heart Protection Study) trên 20.000 bệnh nhân cho thấy: simvastatin 40mg làm 127 Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ giảm nguy cơ bệnh tim mạch trên 1/3 bệnh nhân ĐTĐ có bệnh tim mạch, làm giảm nguy cỏ cả nhồi máu cơ tim và đột quỵ trên bệnh nhân ĐTĐ. Simvastatin kiểm soát cải thiện mức nguy cơ chung 21% trên bệnh nhân ĐTĐ độc lập với kiểm soát glucose máu. Simvastatin làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch có hay không có tăng cholesterol. Vì vậy bên cạnh việc kiểm soát tốt glucose máu ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 điều trị rối loạn lipid máu, giảm kháng insulin là một mục tiêu quan trọng nhằm khống chế, ngăn ngừa biến chứng của bệnh này. Sau 2 tháng điều trị chúng tôi nhận thấy: nhóm không dùng simvastatin nồng độ glucose máu, HbA1c không thay đổi so trƣớc điều trị. Nhóm dùng simvastatin glucose máu là 5,85±1,15 giảm hơn so trƣớc điều trị là 6,57±2,07, HbA1c là 6,70±0,13 giảm rõ rệt so với trƣớc điều trị là 7,23±1,12 với p< 0,05. So sánh hai nhóm sau điều trị chúng tôi nhận thấy nồng độ glucose máu, HbA1c ở nhóm có dùng simvastatin giảm hơn so với nhóm không dùng simvastatin. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhóm dùng simvastatin có sự khác biệt rõ rệt trƣớc và sau điều trị về nồng độ insulin máu trƣớc điều trị là 12,48±6,77 sau điều trị còn 5,22±3,82 và chỉ số kháng insulin (HOMA-IR) trƣớc điều trị là 3,58±1,36 sau điều trị còn 1,45±1,25, với p< 0,05. Nhóm không dùng simvastatin, không thấy sự khác biệt về nồng độ insulin và chỉ số kháng insulin trƣớc và sau điều trị. Nhƣ vậy việc phối hợp simvastatin trong điều trị ĐTĐ typ 2 có thể làm giảm nồng độ glucose máu, HbA1c tốt hơn so với nhóm không dùng simvastatin. Một điều đáng lƣu ý là tỷ lệ HbA1c đƣợc coi là có liên quan tới nồng độ glucose máu từ thời điểm 3 tháng trƣớc đó. Do điều kiện nghiên cứu chúng tôi chỉ theo dõi có hai tháng và điều bất ngờ HbA1c trong nghiên cứu của chúng tôi giảm rõ rệt sau hai tháng điều trị. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy HbA1c là chỉ số đánh giá nồng độ glucose máu trƣớc đó ba tháng. Tuy nhiên theo Rohlfiny Curt L và cộng sự, mối quan hệ giữa nồng độ glucose máu và tỷ lệ HbA1c rất phức tạp. Nồng độ glucose máu ở thời điểm 2 tháng trƣớc thời điểm xác định HbA1c đóng 128 77(01): 123 – 130 góp chủ yếu vào mức HbA1c hơn hẳn so với glucose máu ở thời điểm xa hơn ba tháng trƣớc đó. Điều đó giải thích tại sao tỷ lệ HbA1c có thể tăng, giảm nhanh phù hợp với mức thay đổi glucose máu. Nhƣ vậy sự thay đổi HbA1c ở nhóm dùng simvastatin trong nghiên cứu của chúng tôi có thể là do nồng độ glucose máu giảm mạnh trong hai tháng điều trị. Việc giảm tỷ lệ HbA1c rất có ý nghĩa lâm sàng. Phân tích dịch tễ học của nghiên cứu UKPDS cho thấy giảm HbA1c 1% kèm theo giảm nguy cơ hàng loạt các biến chứng ĐTĐ bao gồm tử vong liên quan đến ĐTĐ (21%), nhồi máu cơ tim (14%), bệnh vi mạch (37%), bệnh mạch máu ngoại biên (43%). Sự kết hợp giữa HbA1c và nguy cơ các biến chứng là liên tục. Do đó mỗi khi giảm 1% HbA1c hy vọng có thể cải thiện đƣợc các kết quả lâm sàng. Kháng insulin là sự bất thƣờng chuyển hoá có tính chất quyết định ở bệnh nhân ĐTĐ typ2 và đƣợc xem nhƣ giai đoạn sớm trong quá trình tiến triển của bệnh, giai đoạn này thƣờng kết hợp với nhiều rối loạn khác nhƣ tăng insulin máu, tăng glucose máu, rối loạn lipid máu, tăng HA, tăng vũa xơ động mạch, làm tăng nguy cơ bệnh lý tim mạch. Sự bài tiết insulin phụ thuộc nồng độ glucose máu, sự tạo thành các dạng oxy hoạt động và rối loạn chuyển hoá lipid có mối liên quan hết sức chặt chẽ với nhau, các con đƣờng chuyển hoá đƣợc hoạt hoá trong quá trình bài tiết insulin có sự kích thích của glucose (tăng đƣờng phân, tăng tỷ số ATP/ADP, tăng nồng độ ca++nội bào). Sự tăng acid béo tự do dẫn đến tăng triglyceride gây rối loạn chức năng và chết tế bào beta chết theo chƣơng trình. Rất nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng nhƣ trên lâm sàng của các tác giả nƣớc ngoài trong thời gian gần đây đã cho thấy tác dụng rất rõ ràng của rối loạn chuyển hoá lipid lên sự kháng insulin và bảo tồn chức năng của tế bào beta. Nhƣ vậy việc điều trị simvastatin trong nghiên cứu của chúng tôi có tác dụng làm giảm rối loạn chuyển hoá lipid trong đó đặc biệt là giảm LDL-C, giảm TG giảm tình trạng stress oxy hoá cải thiện độ nhạy của insulin làm giảm mức insulin giảm đề kháng insulin, từ đó làm tăng mức độ kiểm soát glucose máu. Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ KẾT LUẬN Qua điều trị 107 bệnh nhân ĐTĐ typ 2 có kháng insulin chia ra hai nhóm: một nhóm dùng sulfonylurea đơn thuần, một nhóm dùng sulfonylurea phối hợp simvastatin. Sau 2 tháng theo dõi, chúng tôi nhận thấy một số hiệu quả: - Nhóm dùng simvastatin có các thành phần lipid máu trung bình và tỷ lệ trong giới hạn bệnh lý của các chỉ số: cholesterol, triglyceride, LDL-C thấp hơn, HDL-C cao hơn so với nhóm không dùng simvastatin, với p< 0,05. 77(01): 123 - 130 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Thái Hồng Quang (2001), Đái tháo đường, Nhà xuất bản y học, Tr.120 – 180, Tr.21-24; Tr.75-86. [2]. Đỗ Trung Quân (2007), Đái Tháo Đường và điều trị, Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr.12. [3]. Nguyễn Hải Thuỷ (2006), “ Đặc điểm kháng insulin trong bệnh đái tháo đƣờng”, Y học thực hành, (610), tr.17-27. [4]. Hội tim mạch y học Việt Nam, Khuyến cáo về các bệnh lý tim mạch và chuyển hóa giai đoạn 2006-2010 (2006), Khuyến cáo về chẩn đoán và điều trị rối loạn Lipid máu, Nhà xuất bản Y học Thành phố Hồ Chí Minh, Tr.3565 - Nhóm dùng simvastatin hiệu quả của kiểm soát glucose máu mức độ tốt hơn nhóm không dùng simvastatin: glucose, HbA1c, insulin, chỉ số kháng insulin giảm. Mức độ kiểm soát glucose máu tốt từ 46,3 lên 66,6%, HbA1c mức độ tốt từ 22,2% lên 46,3%. Cải thiện rõ rệt glucose máu ở mức độ kém từ 33,3 xuống còn 14,8%. HbA1c mức độ kém từ 44,4 xuống còn 25,9%, với p< 0,05. [5]. Halaine E, Resnick, Kristina, Jones (2003), “Insulin Resistance, the metabolic Syndrome, and risk of incident cardiovascular disease in nondiabetic American Indians”, Diabetes care,(26), pp. 861-867. - Simvastatin dùng ở liều nhỏ (10mg/ ngày) độ an toàn cao: không có sự thay đổi về nồng độ trung bình creatinin, SGOT, SGPT, tiểu cầu trƣớc và sau điều trị, không có bệnh nhân nào phải dừng thuốc trong quá trình điều trị. [7]. Matthew D.R, Hosker J.P, Rudenski A.S, Naylor B.A (1985) "Homeostasis model assessment: insulin resistance and beta-cell funtion from fasting plasma glucose and insulin concentrations in man", Diabetologia, (28), pp.412-419 [6]. Juan F. Ascano, Rosavio I. lorente (2005), “Diagnosing insulin resistance by simple quantitative methods in subjects With normal glucose metabolism”, Diabetes care, (26),pp. 3320-3325. 129 Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 – 130 ABSTRACT EVALUATION OF THE EFFECTIVENESS OF TREATMENT IN PATIENTS SIMVASTATIN TYP2 DIABETES INSULIN RESISTANCE Nguyen Kim Luong* Central Hospital, Thai Nguyen Objective: To evaluate the efficacy of the complex therapy by sulfonylurea and simvastatin in typ2 diabetic patients with insulin resistance (IR). Patients and methods: 185 subjects, including: 145 typ2 diabetic patient in disease group and 40 healthy person in control group. Assessment the IR situation by HOMA-IR index (HOMA-IR = I0(µu)x G0(mmol/l)/22,5). There were 107 diabetic patients having IR state. They were taken randomized into 2 groups: one group have been treated by sulfonylurea alon (non simvastatin group), other group have been complex treated by sulfonylurea and simvastatin (simvastatin group). assessing the effectiveness of treating after 2 months though parameters: glucose, HbA1c, cholesterol, triglycerid, HDL-C, LDL-C. Results: Simvastatin group have levels of cholesterol, triglycerid, LDL-C lower and level of HDLC higher than non simvastatin group. The glucose control better in simvastatin group: glucose, HbA1c, insulin, IR index more decrease than non simvastatin group. Increasing percentage of good control of glucose and redue the rate of poor control in simvastatin group. Conclusion: The combination of treating sulfonylurea and simvastatin will increase the effective control of lipid and glucose in typ2 diabetic patients with having IR state. Keywords: Typ2 diabetes, insulin resistance, HOMA-IR index, simvastatin * Tel: 0982852165; Email:drluongtn@yahoo.com.vn 130
Similar documents
phòng thương mại ý tại việt nam
đã thực hiện. Với sự tăng trưởng lớn mạnh này, ICHAM đã chính thức trở thành thành viên của Assocamerestero – Liên hiệp hội các phòng thương mại Ý ở nước ngoài và được công nhận bởi MISE (Bộ Phát t...
More information